Thứ Ba, 28 tháng 3, 2017

CÁNH HẠC ẤY ĐÃ BAY XA...

CÁNH  HẠC ẤY ĐÃ BAY XA...
Cánh hạc ấy đã bay xa
Thơ văn vẫn ngát hương hoa, tình đời ...

          Anh Trần Vân Hạc - Nhà nghiên cứu  Văn hóa dân gian Tây Bắc đã vĩnh biệt chúng ta. Mấy ngày nay, trên các trang blog, facebook và một số trang Website, bạn bè gần xa viết những dòng thơ tràn đầy nước mắt thương tiếc anh - một người viết tận tụy, tài hoa,  thủy chung, nhân hậu.
          Anh đã trở về với cát bụi, nhưng tinh thần của anh, tâm hồn của anh còn lưu trên mỗi trang anh viết và trong lòng gia đình, bè bạn.
          Nhớ đến anh là nhớ một người say mê sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Bắc, đặc biệt là văn hóa Thái. Với tính cách cẩn trọng, chu đáo, với cách viết dung dị và giọng văn ngập tràn cảm xúc, anh đem đến cho người đọc niềm vui khám phá và tình yêu với những giá trị văn hóa bản sắc của một tộc người Việt ở Tây Bắc.
          Anh Vân Hạc am hiểu sâu sắc từng loại “Nhạc cụ của người Thái Tây Bắc” như bộ hơi gồm các loại “pí”, khèn bè; bộ dây gồm đàn tính, nhị và bộ gõ gồm: trống, chiêng, chũm chọe và quả nhạc. Anh dẫn độc giả cùng đắm chìm  trong “Những âm thanh tinh tế của nhạc cụ Thái” cùng “Cảm nhận được sự giao hòa của đất trời và vạn vật, ngân rung bay bổng khát vọng một cuộc sống sinh sôi, phát triển, ấm no, hạnh phúc, làm cho tâm hồn người trong sáng hơn, thêm tin yêu vào cuộc sống, hướng mỗi người đến giá trị đích thực của Chân- Thiện- Mỹ”.
          Anh dày công sưu tầm nghiên cứu về “Lịch của người Thái đen Tây Bắc” và khẳng định: Lịch của người Thái đen Tây Bắc cùng với những giá trị văn hóa khác làm nên bản sắc của một tộc người rất đáng trân trọng và giữ gìn”.
          Anh trân trọng “Rừng thiêng của người Thái” bởi anh hiểu rõ: “Rừng, đặc biệt là rừng thiêng (những cánh rừng đầu nguồn, những cánh rừng ma - nơi thờ cúng thần linh, nơi chôn cất những người chết) có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt và tâm linh. Đối với các cộng đồng người Thái thì mỗi ngọn núi, mỗi con suối và mỗi khu rừng đều có những giá trị tinh thần mà người ta tôn thờ. Rừng thiêng của người Thái là biểu hiện tập trung nhất của các niềm tin thiêng liêng đó và được bảo vệ với những quy định chặt chẽ của cộng đồng từ đời này sang đời khác...”.
          Anh Vân Hạc yêu quý “Những dòng suối Tây Bắc” và tự bạch: “Tôi sinh ra và lớn lên ở Tây Bắc, sống giữa cảnh thiên nhiên  hùng vĩ, nên thơ. Mỗi rừng cây, mỗi con suối trong xanh gợn sóng, mỗi con gió thấm đẫm hương rừng như ngấm vào huyết quản. Dẫu bây giờ xa Tây Bắc, nhưng trong tôi luôn cồn cào nhớ những dòng suối thơ mộng, trong lành ”. Anh suy tư: “Tây  Bắc có biết bao nhiêu dòng suối nhỏ, những dòng suối len lỏi giữa bạt ngàn xanh như mạch máu trong cơ thể sống. Đó là nguồn sống của vạn vật, là chiếc nôi của cộng đồng dân cư với những sinh hoạt muôn mầu và ẩn chứa bao huyền thoại, góp phần làm nên một văn hóa đặc thù. Những dòng suối nhỏ kia đâu có biết mình chính là ngọn nguồn của sông, của biển, góp phần bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, ươm những mùa no ấm...”. Những dòng suối hiện lên trong những áng văn của anh gần gũi thân thương như số phận mỗi con người Tây Bắc trong huyền thoại: “Đây dòng Nậm Xia (Văn Chấn, Yên Bái) - dòng nước mắt của cô gái Thái trắng trong xinh đẹp bị cường quyền chia rẽ lứa đôi, để đến tận hôm nay, những ngày nắng đẹp, vẫn thấp thoáng làn rêu huyền ảo trong nước biếc - mái tóc dài thơm của cô gái hóa thành. Kia dòng Nậm Tộc (Văn Chấn, Yên Bái) - dòng nước mắt xót xa tủi hờn của người con gái Khơ Mú than khóc cho mối tình ngang trái của một kiếp người, của cả dân tộc từng bị thực dân, phong kiến tàn sát, tận diệt, đến mức chỉ còn ba trăm người sống chui lủi và ẩn náu bên dòng suối nhỏ...”. “...Những dòng suối Tây Bắc ẩn giấu trong mình bao điều trầm tư, sâu lắng.”
          Và những dòng suối Tây Bắc ngày nay trên mỗi trang viết của anh tràn ngập chất thơ, ngồn ngộn hơi thở của cuộc sống mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc: Mùa xuân, trên các bãi rộng ven suối, các bản Thái tưng bừng trong lễ hội hái hoa ban, cùng các trò chơi dân gian: Đua thuyền vượt thác, bắn nỏ, tung còn, múa xòe... Những đêm trăng, những dòng suối long lanh muôn ánh vàng, in bóng những  đôi trai gái đang tình tự giữa đất trời ngào ngạt hương xuân. Khắ bản mường, những dòng nước tưng bừng quay cọn nước tưới mát cho đồng ruộng, giục lúa lên xanh, ươm những hạt vàng và thậm thình tiếng chày giã gạo cối nước như nhịp tim của suối, âm vang một mùa vụ ấm no.”
          Anh Vân Hạc rất yêu thích các trò chơi dân gian của dân tộc Thái và đặc biệt là  yêu thích trò chơi tung còn. Bởi “Tung còn là mỹ tục của người Thái Tây Bắc, là trò chơi vui tươi trong ngày xuân và trong những lễ trọng, hơn thế còn chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Quả còn chính là sự mô phỏng những ánh sao băng chợt chói sáng  trên bầu trời cao như quỹ đạo của rồng còn ”. Với anh, “Quả còn sáng cả trời xuân”, “Quả còn mang những ý nghĩa sâu xa và thiêng liêng. Mỗi người khi cầm quả còn trên tay là gửi vào đó tất cả sự nâng niu trân trọng, gạt bỏ những ý nghĩ xấu xa, thấp hèn và dục vọng... Sau ngày hội, người phụ nữ, người sinh ra và nuôi dưỡng niềm vui và hạnh phúc giữ trọng trách cất giữ quả còn, như cất giữ nâng niu những hạt giống quý báu cùng bao lời khẩn cầu thiêng liêng”.
          Anh tìm thấy “Những bài học bổ ích và lý thú qua các bài đồng dao Thái Tây Bắc”, Với cách kết cấu móc xích, cùng với cách diễn đạt nhẹ nhàng, ngôn ngữ giàu hình ảnh, vần điệu và nhạc điệu, kết hợp với các trò chơi, tạo nên một sự sống động, tươi sáng, phù hợp với cách nghĩ, lối sống và tiếp nhận của trẻ thơ”. Đó là thế giới của các loại quả: “Dưới bụi có quả cà/ Bụi cao có quả nhót/ Quả chín gọi quả quân/ Tít trên đồi quả sim/ Nhiều gân là quả sổ/ Quả béo mọng quả ngõa/ Quả sung chát trĩu cây/ Chạy men cành quả khế/ Quả chuối chín vàng ươm/ Hai quả giống anh em/ Trám đen chua, cọ chát/ Quả có đốt quả  me/ Mình đầy gai quả mít/ Chỉ lên trời quả ớt...”. Cũng có khi các bài đồng dao lại đi vào các đặc điểm của loài vật như bài “Đuổi bắt chuột”:Này chuột chuột nhắt/ Lúc mày đi mày trượt cỏ tranh/ Lúc mày đến mày len lá lúa/ Sáng sớm ra mày men đường cái/ Đi đường rộng đường bằng về bản...” giáo dục các em lũ chuột có hại cho mùa màng cần phải tiêu diệt để bảo vệ thành quả lao động. Ở bài “Ngồi dây đu” sự giáo dục vô cùng tinh tế: “ Nắm dây đu/ Đôi chân như hai ống nước/ Ta bay cao/ Cho ống nước đổ xuống/ Khi em trên/ Lúc em dưới/ Dưa thêm chua/ Bánh thêm ngon/ Cơm chan nước lã thành ngọt/ Nhìn xuống nhà tạo/ Thấy chậu nhà tạo bị thủng/ Ô nhà tạo bị rách”. Anh có lời bình rất sát thực, rất hay: “Bay lên trời cao, con người như được chắp cánh cho những ước mơ thánh thiện, cùng hòa trong niềm vui trong cuộc sống, cuộc sống như cũng đáng yêu hơn, những giá trị vật chất thường ngày không có được nhường chỗ  cho những ước mơ cao đẹp và thêm trân trọng yêu hơn những gì có được do bàn tay lao động, cuộc sống thêm hương sắc, “Dưa thêm chua/ bánh thêm ngon/ cơm chan nước lã thành ngọt”. Nhà tạo giàu là thế mà khi bay trên trời cao người ta thấy: “Chậu nhà tạo bị thủng/ ô nhà tạo bị rách” nhỏ bé, tầm thường trước những ước mơ lành mạnh, những khát vọng cháy bỏng, chính đáng của người dân lao động”. Bài “Trâu húc nhau” được anh nhận xét “Đầy kịch tính và âm thanh”: “Hục hịch... Hục hịch/ Trâu húc trâu đôm đốp... đốp/ mày sứt tao chữa... chữa”/ Mắt  mày vỡ thì xong.. .xong/ Răng mày rụng tao trả... trả/ Hục hịch... Hục hịch”.
          Anh Vân Hạc say mê văn hóa Thái đến mức cảm nhận được cả “Hồn dân tộc trong từng họa tiết” thể hiện ở nghệ thuật trang trí phong phú độc đáo, sống động trên thổ cẩm và trang trí nhà cửa của tộc người này. “Thổ cẩm của người Thái Tây Bắc thường sử dụng các màu trắng, đỏ, vàng, xanh lá cây, tím... tạo ấn tượng mạnh. Họa tiết thường đối xứng với nhau, phản ánh quan niệm về sự hòa hợp trường tồn của cuộc sống, quan niệm về về vũ trụ, triết lý âm dương, đất trời cùng vạn vật... Lấy thiên nhiên làm hình mẫu, thổ cẩm của người Thái Tây Bắc không khác nào cảnh thiên nhiên thu nhỏ. Đó là những hình thoi như quả trám chạy viền, hoa ban cách điệu, con suối với thác ghềnh tung bọt trắng xóa, đây đó những chùm hoa buông dài như xà tích, lá đơn, lá kép, búp cây, dây leo, cây guột... Ngay trong mỗi bông hoa, hoặc thế giới động vật cách điệu cũng có hoa đực, hoa cái, con trống, con mái. Âm dương hài hòa, ước mong sự sinh sôi phát triển, khát khao chung sống thuận theo quy luật của muôn đời được thể hiện vô cùng tinh tế và phải trải qua hàng ngàn năm tiến hóa mới có được...”. Nhà cửa của người Thái cơ bản theo hình mẫu của thổ cẩm: “Giữa núi rừng trùng điệp, gió sương giá buốt, bếp lửa hồng trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần cho mỗi con người, mỗi gia đình, bản mường, để rồi mỗi khi đi xa, nhớ về bếp lửa nhà sàn, trong lồng ngực nhỏ nhoi của mỗi người con của quê hương chợt ấm một ngọn lửa của tình cha, nghĩa me, anh em và quê hương yêu dấu, tiếp sức cho mỗi người con vượt lên gian khó, chiến đấu và chiến thắng. Trong kiến trúc nhà sàn người Thái Đen Tây Bắc, cột thiêng có vai trò vô cùng quan trọng, được coi như trụ cột, chứa đựng linh hồn của ngôi nhà, là biểu tượng cho sự bền vững của gia đình, ẩn chứa những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm ván hình răng cưa, trên khau cút”...
          Yêu văn hóa Thái đến nhường ấy, anh Vân Hạc còn dành nhiều thời sưu tầm dân ca Thái rồi dịch ra tiếng Việt với mục đích quảng bá rộng rãi cho mọi người cùng thưởng thức cái hay, cái đẹp trong dân ca Thái. Nhiều độc giả hẳn  đã rất xốn xang rạo rực  khi đọc “Lửa tình hạn khuống”:Nong ơi!/Hạn khuống mỗi năm chỉ mở một lần/ Thu xếp việc nhà rủ nhau đi hái củi/ Cái con mắt cứ lúng liếng lúng la như là muốn nói/ Cái bụng như có lửa ngóng ông mặt trời xuống núi/ Câu khắp giao duyên nóng bỏng đợi trên môi.../ Nong ơi!/ Chim rừng ngủ rồi nhường ta trọn đêm/ Trăng sà xuống rắc vàng muôn câu khắp/ ...Nong ơi!/Sàn hoa đêm nay ta chung tay chụm hồng ngọn lửa/ Mai sẽ bên nhau ấm bếp lửa nhà sàn.”
          Là người lính, là nhà giáo, rồi say mê nghiên cứu sưu tầm văn hóa dân tộc Thái Tây Bắc, anh Vân Hạc còn làm thơ, viết lời bình thơ của bạn bè, chụp ảnh, viết tản văn, truyện ngắn... Ở thể loại nào, các tác phẩm của anh cũng chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bởi cảm xúc tinh tế, chân thành và đậm đặc chất núi rừng.
          Độc giả yêu thơ  tình của anh Vân Hạc,  yêu “Quả pao không tuổi” như Tình yêu không mùa/Trái tim xuân sớm/ Nõn nà non tơ” thật mộc mạc hồn nhiên, trong trẻo như  hơi thở của núi rừng vậy!
          Và đây “Điệu  valse phố núi”: “... Là vũ điệu của lá/ Của hoa/ Của tiếng họa mi/ Khắc khoải gọi mùa xây tổ/ Hồi sinh sau những ngày đông giá/ Anh dìu em vũ điệu ngàn sâu/ Ngập tràn hương gió/ Bồi hồi cây  thở/ Thác ngời ban mai/ Giọt nước mắt em gọi mầm măng nhú/ Tưới nhuần cả lá thu rơi/ Rưng rức trải vàng trên đất/ Anh ru em bằng những gì tinh khôi nhất/ Nụ cười thắp lửa trong ánh mắt.../ Điệu Valse em ơi/ Anh nâng niu ru tình day dứt...”. Cảm xúc thăng hoa đã cho anh một bài thơ tình thật đẹp, đúng như người xưa nói : “ Thi trung hữu nhạc” và “ Thi trung hữu họa”
          Và nữa là “Mùa yêu” đắm say mãnh liệt mà vô cùng sâu lắng, ngọt ngào: “Tiếng khèn anh như cánh chim  xuân/ Cần mẫn gom từng tia nắng/ Từng sợi tin yêu bốn mùa hy vọng/ Làm tổ trong trái tim em/ ...Đấy là mùa yêu có phải không em/ Bất chấp mưa giông bão tố/ Âm thầm lặng lẽ sinh sôi/ Dẫu đời còn bao đau khổ”
          Tôi hằng nghĩ: những bài thơ tình anh Trần Vân Hạc viết đều dành tặng cô giáo dạy văn Dương Hiền Nga - người bạn đời xinh đẹp, dịu dàng, chung thủy của anh bởi qua nhiều lần tâm sự với anh, tôi được biết đôi vợ chồng yêu văn chương  ấy có một mối tình đẹp như trong tiểu thuyết!
          Sinh thời, anh Trần Vân Hạc đã tặng vợ chồng tôi một bài thơ có tên là  “Vợ chồng Trai Rừng”:Vợ chồng Trai Rừng xuống chợ/ Đèo quanh vó ngựa dồn vang/ Váy mày đong đưa mùa xuân/ Môi tao còn sưng vấp đấy/ Tao mua cho mày cái kim/ Mày thêu mặt trời đỏ lựng/ Thêu tiếng khèn tao gọi bạn/ Thêu lời yêu mày trao tao/ Cùng nâng bát rượu ngô nào/ Tao say thấy mày đẹp lắm/ Má như hai quả đào chín/ Tự dưng muốn cắn má mày/ Trời chiều đèo dốc núi say/ Mày dặt tao lên lưng ngựa/ Mỏi chân thì mày cầm đuôi/ Theo lũ chim rừng về tổ”.
          Bài thơ của anh đã cho tôi cảm xúc để viết lên bài “Bùa yêu xưa” ( Đăng trong tập thơ “Tôi tam giác”, NXB Văn học, 2016): Chiếc khèn  giấu bùa yêu lâu rồi quên thổi/ Treo trên cũ kỹ tường phủ bụi thời gian/ Anh mải miết việc công sớm tối/ Khèn quên rung cung bậc nồng nàn/ Gấu váy em hoa văn lấp lánh/ Bùa yêu xưa mọc cánh bay đâu?/ Ngày khách thơ xa ghé lại thăm nhà/ Đem bài thơ tặng Trai Rừng - Gái Núi/ Bên bếp lửa bập bùng/ Hai vợ chồng nhìn nhau bối rối/ Thẹn thùng thuở chớm yêu/ Trai Rừng đem khèn xưa ra thổi/ Quấn quít gọi mùa xuân/ Gái Núi mặc váy Mông thơm bảy sắc cầu vồng/ Mắt Gái Núi như sao mai lấp lánh/ Trai Rừng ngẩn ngơ/ âu yếm vuốt ve khèn/ Gái Núi thẫn thờ/ nhón chân lên gác bếp/ tìm lại vần thơ xưa”. Anh Vân Hạc đã nhận được tập thơ tôi tặng và đã hồi âm lại. Thế mà giờ anh đã ra người thiên cổ.
          Văn là người, thơ cũng là người. Anh Vân Hạc giàu cảm xúc, lãng mạn, tinh tế, lịch thiệp nên thơ anh viết về đề tài gì cũng gợi cảm, ý nhị.  “Rượu xuân” trong thơ anh là thứ tiên tửu, mỹ tửu chứ không phải thứ rượu uống của những kẻ phàm phu tục tử: “Ta cạn ly xuân vui/ Cụng ly cùng mây gió/ Xuân... dừng bên ca sổ/ Bỗng đất trời ngát hương”.
          Và còn rất, rất nhiều bài thơ của anh - dù viết về đề tài gì - cũng dễ đi vào lòng người như thế!
          Với anh Trần Vân Hạc, thơ là thế và văn cũng là thế!
          Trên trang Website trannhuong.com của nhà thơ - họa sĩ Trần Nhương, một trong những bài được mọi người đọc nhiều nhất là bài “Huyền thoại tắm tiên Tây Bắc” của anh Trần Vân Hạc kèm theo bức ảnh chụp các cô gái Thái tắm  rất gợi cảm, tình tứ mà cũng rất e ấp, kín đáo. Hãy nghe anh miêu tả về những nàng sơn nữ xinh đẹp ấy: “Người ta vẫn kháo nhau, lên Tây Bắc mà xem con gái Thái tắm tiên. Con gái Thái da trắng như hoa ban, uyển chuyển với những đường cong tuyệt mỹ. Con gái Thái dịu dàng, hiền thục... Không biết có phải từ khi các cô gái Thái khỏa mình trong dòng biếc, những dòng suối già nua trầm mặc chợt nhận ra mình có một trái tim và tâm hồn trẻ trung, để rồi cứ mộng mơ, khao khát một cuộc sống bình dị, yên vui - ước mơ cháy bỏng của bao đời? Để rồi những ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của suối nguồn Tây Bắc trong một chiều các cô gái Thái tắm tiên, chợt thấy mình trong sáng hơn, thanh cao hơn, như được hòa mình cùng đất và người của Tây Bắc huyền thoại.”
          Văn phong trong “Huyền thoại tắm tiên Tây Bắc” của anh Vân Hạc đẹp như một áng thơ, hội tụ những giá trị tiêu biểu của Chân - Thiện - Mỹ. Bởi cái nhìn - tâm hồn anh trong sáng, thánh thiện khiến  những dòng anh viết về cô gái Thái tắm tiên thêm lung linh huyền ảo, thêm thanh cao, tao nhã, khiến người đọc ước ao được chiêm ngưỡng, được nâng  niu trân trọng lưu nhớ mãi hình ảnh đẹp của các cô sơn nữ tắm tiên trong tâm hồn mình...
          Ngoài tản văn “Huyền thoại tắm tiên Tây Bắc”, anh Vân Hạc còn có nhiều áng văn xuôi ngập tràn cảm xúc, lay động đến nơi sâu lắng thiêng liêng nhất trong tâm hồn mỗi người con đất Việt. Một trong những bài văn đi vào lòng như thế là bài “Nghĩa trang mang tên một dòng sông”:Ôi có nơi nào trên trái đất này có nghĩa trang không một nấm mồ, không rõ số lượng người hy sinh, không biết tên những người đã mất? Nghĩa trang mang tên một dòng sông. Dòng sông bao dung ôm các anh vào lòng. Các anh hóa tượng đài bất tử trong lòng Tổ Quốc!...Bao tháng năm những trái tim đó vẫn tươi nhiệt huyết. Những trái tim như những nốt nhạc ngân giữa đất trời tự do, vang mãi khúc quân hành, như những giọt nước mắt đau thương của đất trời khóc cho một thời lửa đạn, đất nước chia cắt như thân thể bị chia lìa. Dòng Thạch Hãn êm đềm trong xanh từ dãy Trường Sơn đổ về chảy ra cảng Cửa Việt, sóng nước lao xao như thấp thoáng những bóng mũ tai bèo. Đôi bờ cỏ xanh vô tư ngập tràn bờ bãi kia có bao đồng đội của chúng tôi và những người dân hiền lành đã nằm lại? Dòng nước mặn mòi kia hòa bao máu của bao người? Những hạt phù sa ươm vàng mùa no ấm kia có bao xương thịt của những người lính trẻ? Đâu đây như vẫn cất lên từ sâu thẳm sông xanh tiếng gọi:“Mẹ ơi!” của những đứa con yêu  trước khi bị dòng nước xiết cuốn đi”. Mỗi lần đọc “Nghĩa trang mang tên một dòng sông” là một lần tôi khóc. Tôi hiểu: đó không phải là những giọt nước mắt ủy mị, yếu lòng mà là những giọt nước mắt tiếc thương, cảm phục những anh hùng liệt sĩ đã quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, những giọt nước mắt thanh lọc tâm hồn ta, cho ta sống nhân văn hơn, xứng đáng hơn với giá trị con Người viết hoa.
Anh Vân Hạc đã truyền cho độc giả cảm xúc ấy bởi anh đã viết bằng cả trái tim mình - trái tim của một người trong cuộc bởi anh là chiến sĩ Pháo binh thuộc đoàn Bông Lau 38 trực tiếp tham gia chiến đấu tại Quảng Trị hè 1972 khi anh vừa tròn hai mươi tuổi.
          Đêm nay, đọc lại những dòng này của anh, thêm một lần nữa, tôi không sao ngăn được những dòng nước mắt mặn chát tuôn trào. Tôi khóc vì anh linh của các liệt sĩ đã yên nghỉ vĩnh hằng. Tôi khóc vì tác giả - người anh khả kính của tôi - vừa rời xa dương thế. Anh ra đi nhẹ nhàng thanh thản lạc quan như lời thơ anh từng viết: “ Dẫu  mai này anh sẽ ra đi/ Nắng vẫn nắng /Gió vẫn gió/ Chim rừng vẫn hót/ Anh vẫn hát mãi lời yêu từ đất/ Bay lên phía mặt trời”
Nhưng tôi  biết rằng, cũng như anh từng sống, Dòng sông lửa” kia sẽ tiếp thêm cho tôi và muôn ngườiNiềm tin, nghị lực để sống, chiến đấu thay cho cả các anh”.
Bùi Thị Sơn
 ( Viết ngày 23/03/2017- ngày gia đình, bè bạn tiễn đưa anh Trần Vân Hạc về nơi an nghỉ cuối cùng)



Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

NĂM MỚI, GÁI NÚI XIN KÍNH CHÚC CÁC BÁC, CÁC ANH CÁC CHỊ VÀ CÁC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG, THÀNH ĐẠT VÀ CÓ THÊM NHIỀU TÁC PHẨM HAY NHÉ !
DO ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH RIÊNG, GÁI NÚI KHÔNG ĐẾN THĂM VÀ CHÚC TẾT TỪNG NHÀ ĐƯỢC, RẤT MONG ĐƯỢC MỌI NGƯỜI LƯỢNG THỨ NHÉ
GÁI NÚI

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

KHOẢNG TRỐNG

KHOẢNG TRỐNG 

(Mẹ tôi sinh năm 1930 song còn đẹp và minh mẫn lắm!  Theo ước nguyện của mẹ, anh trai tôi đã xây sẵn một khoảng trống bên mộ bố giành mai sau mẹ đi gặp bố)
 

Mỗi lần về thăm mẹ
 
Con đến viếng mộ cha
 
Hương toả thơm lặng lẽ
 
Di ảnh cha nhạt nhoà...
 

Con đi công tác xa
 
Tít tắp trời Tây Bắc
 
Mỗi khi ghé thăm nhà
 
Lòng bâng khuâng rạo rực
 

Mẹ nghỉ hưu tất bật
 
Lo con cháu đời thường
 
Anh cả ở gần nhất
 
với mẹ luôn kính thương
 

Em gái, em trai con
 
Cũng thường xuyên chăm mẹ
 
Dâu rể rất thảo hiền
 
Mẹ mong gì hơn thế!
 

Mẹ cười rưng rưng lệ:
 
-Mẹ hạnh phúc nhất đời
 
Đừng lo cho mẹ nhé
 
Hãy công tác tốt thôi!
 

...chiều nay con bồi hồi
 
Thắp hương trên mộ bố
 
Ôm khoảng trống chơi vơi
 
Sóng đôi bên ngôi mộ...
 

Con cùng anh dọn cỏ
 
Khoảng trống...nước mắt tuôn
 
Rì rầm thầm khấn bố:
 
-Mẹ chưa đi...đừng buồn!
 

Biết bố vẫn vấn vương
 
Hồn quẩn quanh bên mẹ
 
Mẹ con luôn nhớ thương
 
Đêm đêm rơi dòng lệ
 

Nhưng bố ơi không thể
 
Đón mẹ con sớm đâu!
 
Cho chúng con mãi trẻ
 
Trong tình mẹ nặng sâu
 

Khoảng cỏ trống úa nhầu
 
Như lòng con đau xé
 
Con muốn ôm mãi mẹ
 
Lấp đầy khoảng trống con
 

Xin hồn bố đừng buồn
 
Khi nằm bên khoảng trống
 
Lòng bố luôn mở rộng:
 
Mẹ sống mãi bên con...
 

         Tuyên Quang, mùng 5 Tết Tân Mão
 -2012


Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM NHẬN BÀI THƠ " TÌNH YÊU TRONG CHIẾN TRANH"

Huỳnh Xuân Sơn Với Cảm Nhận bài thơ Tình Yêu Trong Chiến Tranh của tác giả Bùi Thị Sơn



Tháng Bảy thơ về đề tài Chiến Tranh và Tri Ân tràn lên khắp các trang thơ xuất phát từ những tâm hồn yêu thơ. Nào đâu chỉ có những vần thơ  nhắc nhớ về chiến trận với bom đạn tàn khốc. Đâu phải chỉ có thơ  lên án tội ác chiến tranh gây cảnh tang tóc mất mát đau thương cho người dân trên cả nước,dù ít dù nhiều đều phải  gánh chịu hậu quả…
Một mảng đề tài không thể thiếu trong những năm gian khổ ấy, là Tình Yêu. Vâng Tình Yêu lúc nào cũng là đề tài nóng nhất cho nhà thơ khi cầm bút. Người trong cuộc viết cho nhau, người ngoài cuộc viết cho người trong cuộc cùng thế hệ. Đặc biệt hôm nay tôi gặp và rất muốn đồng hành với cảm xúc của người ngoài cuộc viết về những người trong cuộc yêu nhau, nhưng khác thế hệ. Bài thơ của tác giả Bùi Thị Sơn có tựađề:
Tình Yêu Trong Chiến Tranh
Tình yêu trong chiến tranh
mong manh
lặng lẽ như trăng rằm
long lanh…
Phút rạo rực nhọn hoắt như chiếc dằm
Găm chặt trong lòng lính trẻ
Không dám vượt một tầm với rất gần
Vuốt ve một niềm mơ thật khẽ…
Nuốt lịm nỗi khát khao lặng lẽ
Giữa hai đầu võng đưa
Cô dân công
Tay bấu víu khoảng thừa
vờ ngủ
Bốn mươi năm sau
Trở về thăm mộ cũ
Người lính tóc bạc phơ
Thương cô gái hóa người thiên cổ
Trắng trong mãi một giấc mơ( Bùi Thị Sơn)
Lời mở cho bài thơ phải chăng tác giả muốn khẳng định “Tình yêu trong chiến tranh” khác với tình yêu trong hoà bình ư? Từ xa xưa tới nay câu hỏi thế nào là tình yêu chẳng ai định nghĩa đúng trong mọi trường hợp… Mỗi trái tim có nhịp rung động theo tần số khác nhau, chẳng ai giống ai. Nhưng trong chiến tranh tình yêu “mong manh” thì có lẽ đúng trong mọi trường hợp. Người đi tham gia chiến đấu. Người ở lại hậu phương, một lá thư tâm tình gửi cho nhau cũng là báu vật hiếm hoi. Người đi mang theo lời hẹn thề để sống chiến đấu…Người ở lại chờ đợi với một niềm tin trong mỏi mòn..không biết ngày sum họp. Người đi kẻ ở họ yêu nhau như vậy trong thời ly loạn. Còn những cuộc tình nảy sinh tại chiến trường đến với các chàng trai cố gái xông pha lửa đạn thì lại khác. Người con trai biết trái tim mình rừng rực lửa đấy, nhưng có khi ngay cả ngỏ lời cũng không…Vì biết ngày mai ra sao dưới mưa bom bão đạn…Còn phía người nữ nhi đang  tham gia phần việc mà  thanh niên thời nay phần đông có lẽ chỉ nghe cũng đã thấy sợ. Tôi chỉ biết những công việc mà họ đã làm qua sách vở và những lời ca là động lực để sống để chiến đấu của các anh các chị một thời “Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường? em đi lên rừng cây xanh mở lối, em đi lên núi núi ngả cúi đầu. em đi bắc những nhịp cầu nối những con đường tổ quốc yêu thương. Cho xe thẳng tới chiến trường. Cô gái miền quê ra đi cứu nước. mái tóc xanh xanh tuổi trăng tròn…” (Cô Gái Mở Đường- Xuân Giao). Chứ tôi chưa hề được học được nghe về tâm tư tình cảm của họ khi bên nhau phải nén lòng. Kìm hãm tiếng yêu, mà hình ảnh tác giả miêu tả có lẽ rất đúng tâm lý và rất thực ở thời điểm ấy:
Nuốt lịm nỗi khát khao lặng lẽ
Giữa hai đầu võng đưa
Cô dân công
Tay bấu víu khoảng thừa
vờ ngủ
Hai động từ kép “nuốt lịm” và “bấu víu” rồi “vờ ngủ” cho thấy sự chịu đựng và kìm nén tình cảm không hề dễ dàng chút nào. Trong khi ở ngay cánh võng bên cạnh là một anh lính trẻ cũng đang có khao khát rất đàn ông rất thật:
Phút rạo rực nhọn hoắt như chiếc dằm
Găm chặt trong lòng lính trẻ
Không dám vượt một tầm với rất gần
Vuốt ve một niềm mơ thật khẽ…
Có lẽ tôi và rất nhiều bạn đọc sống và yêu trong thời bình yên hôm nay. Rất khó hiểu hết tại sao  “Phút rạo rực” của người đàn ông lại được tác giả ví nó “nhọn hoắt như chiếc dằm”. Ác nghiệt ở chỗ cái dằm ấy lại “găm chặt trong lòng anh lính trẻ”. Chiếc dằm nhọn hoắt ấy  lại chính là phút rạo rực của người đàn ông ư? Vậy thì tại sao lại bị “găm chặt trong lòng” mà không bùng phát ra? Mang thắc mắc ấy đi tìm và tôi được biết vào lúc chiến tranh ác liệt ấy họ không được biểu hiện tình yêu ủy mỵ, làm nhụt chí chiến đấu. Thư từ gửi trao cho nhau cũng chỉ được nói chuyện đánh giặc. Làm gì có chuyện âu yếm “vuốt ve một niềm mơ ..” dẫu có thật khẽ thì cũng không được! bởi kỷ luật sắt của mệnh lệnh. Nên anh lính trẻ “không dám vượt một tầm với rất gần”. Còn “phút rạo rực” ai lại không có, đâu chỉ riêng người lính trẻ ấy! Nhưng "phút rạo rực" đến để rồi phải kìm nén, chôn vùi đi trong nhức buốt trái tim thì có lẽ chỉ có trong thời chiến mà thôi!
Một thời tôi đã nghe và đã thích những lời ca:
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư. (Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây- Hoàng Hiệp)

Và cũng đã tin rằng “cái gạt nước” trước tấm kính xe ấy có thể “xua đi nỗi nhớ” trong lòng người đang yêu. Còn phía nữ nhi thì đơn giản hơn chỉ cần “cái nhành cây “ thôi là “gạt nỗi riêng tư” đi được. Tôi đã thật là ngây thơ và có phần mù quáng trong niềm tin vào sự rung động của trái tim yêu! Cho đến lúc mà đọc được lời thơ cũng như những lời chia sẻ sau:
cả tiểu đội ngây người đứng ngắm
đây rừng phơi quần áo của chị em
17 năm -mài miệt sách đèn
đâu ai đã dám cầm tay bạn gái
nếu xem phim RỪNG LẠNH em sẽ hiểu về nỗi khát yêu của lính - đói rét ,bom đạn ,kể cả cái chết họ cũng không sợ -cái họ sợ là nỗi cô đơn -cô đơn đến mất lý chí ,đến phát rồ phát dại -trần truồng chạy trong rừng gào gọi tình yêu
cũng không biết bao nhiêu người ngã xuống có trở thành thiên sứ không khi mà họ còn trinh trắng ?’ (Hải Minh)
Hay như:
Đọc, hiểu, thương và cảm phục những CON NGƯỜI chân chính trong cuộc chiến tranh vệ quốc đau thương và oanh liệt!
Bạn chị viết thư từ chiến trường Trị - Thiên về, có đoạn: "T ơi! Sáu tháng nay chúng tớ ở rừng, tuyệt nhiên không có bóng dáng con gái. Nói chuyện với nhau, chúng tớ chỉ thèm được nhìn thấy đôi bím tóc và chiếc quần phíp
thôi!" Tội chưa?! (Hoamai1)
Và đây là lời chia sẻ của một bạn đọc khác nữa:
“Giai thoại chiến tranh và người lính kể đến bao giờ mới hết. Tình yêu khát khao, rạo rực, cháy bỏng con tim của người chiến sĩ. Nhưng họ không dám thổ lộ tình yêu, bởi họ sợ hôm nay là vậy nhưng ngày mai sẽ ra sao chỉ làm khổ cho nhau. Đớn đau vì một mối tình. Đành lặng yên, tinh nguyên sự trắng trong của mối tình lùi sâu vào ký ức và đẹp theo thời gian... (Đức Thắng)
Những khao khát rất thật, rất đời như thế nhưng họ cả một thế hệ đã phải nín nhịn, phải kìm nén vì chiến tranh. Vâng tôi cũng đồng ý rằng còn nhiều lắm kể bao giờ mới hết được. Thôi kể ra được bao nhiêu những uẩn ức trong lòng họ đã phải chịu đựng và kìm nén, thì có lẽ cũng an ủi được phần nào. Vì sự hy sinh thầm lặng mà lớn lao của các cô gái, chàng trai năm xưa cũng có người biết đến, dẫu muộn còn hơn không!
Bài thơ Tình Yêu Trong Chiến Tranh đã vào khổ kết với những vần thơ nặng trĩu tâm tư người trong cuộc may mắn trở về, tâm tư tác giả, tâm tư tôi và có lẽ rất nhiều bạn đọc khác nữa:
Bốn mươi năm sau
Trở về thăm mộ cũ
Người lính tóc bạc phơ
Thương cô gái hóa người thiên cổ
Trắng trong mãi một giấc mơ
Tính từ 30/5/1975 cho tới nay ngót bốn mươi năm. Từngđoàn cựu chiến binh quanh năm tìm về chiến trường xưa. Người mong muốn đi tìm đồng đội hoặc thân nhân ngã xuống những năm bom đạn. Có không ít người lính già tìm lại chiến trường xưa thăm người trong mộng của mình. Gọi là trong mộng, bởi ngày ấy có yêu đến mấy cũng lặng im kìm nén vì đại cuộc vì nhiệm vụ… Một trong số đó là “Người lính tóc bạc phơ” của tác giả Bùi Thị Sơn. Anh về “thăm mộ cũ”  sau “bốn mươi năm” còn gặp lại, dẫu chỉ là nấm mộ cũ có lẽ anh còn là “người may mắn” bởi dẫu cho “thương người con gái” ấy “trắng trong mãi một giấc mơ” và đã “hóa người thiên cổ” nhưng còn nấm mộ là còn hơn biết bao nhiêu những: “Trắng trong mãi một giấc mơ”, còn đang phải nằm đâu đó, cô đơn, lạnh lẽo, giữa rừng già, ven lộ hay bên bờ suối! mà người “Không dám vượt một tầm với rất gần” xưa, cũng còn đang nằm đâu đó hoặc không biết họ ở đâu mà đến thăm như “người lính tóc bạc phơ” hôm nay.
Vẫn biết chiến tranh là hy sinh, là mất mát không chỉ tình riêng mà cả chính mạng sống của những người tham gia chiến đấu. Sự hy sinh thầm lặng của những đôi lứa yêu nhau, chờ đợi nhau. Rồi những người vợ chờ chồng trong mòn mỏi, những đôi lứa được gần nhau, yêu nhau  mà không dám bày tỏ cũng là sự mất mát vì chiến tranh, do chiến tranh, mà có lẽ  không bao giờ, và có điều gì bù đắp lại được.
Bài thơ Tình Yêu Trong Chiến Tranh của tác giả Bùi Thị Sơn, với những câu thơ mộc mạc giàu hình tượng, nặng tình thơ và ý thơ dạt dào. Đã nói lên được phần nào những hy sinh thầm lặng ấy. Sự dũng cảm vượt qua được “phút rạo rực” của người lính trẻ có khi còn khó khăn hơn việc cầm súng lao lên giữa mưa bom bão đạn.
Cám ơn Tác giả Bùi Thị Sơn đã cho tôi có dịp đồng hành với một góc nhìn về sự mất mát trong chiến tranh, mà xưa nay tôi chưa lưu tâm tìm hiểu. Có thể với cá nhân tôi cùng những suy nghĩ trong bài viết này, chưa hẳn đúng trong mọi trường hợp. Mong tác giả và bạn đọc hãy coi đây là tình cảm của cá nhân tôi dành tặng cho những “người lính tóc bạc phơ” hôm nay tìm về với những “Trắng trong mãi một giấc mơ”nơi chiến trường năm xưa. Cùng dành tặng cho những người lính mà một thời trai trẻ đã “không dám vượt một tầm với rất gần”.Nhưng nay chưa có điều kiện hoặc không biết "người ấy" đang ở nơi đâu, để mà tìm đến, mong một lần hội ngộ dẫu có phải âm dương cách trở...
Quy Nhơn 26/7/2014
Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

CHÙM THƠ VIẾT NGÀY 27 THÁNG 7


1-LIỆT SĨ

Gửi vào đất: nắm xương tàn
Gửi vào đời : những chứa chan ân tình
Gửi vào người: đức hy sinh
Con dân đất Việt nghiêng mình trước Anh !
Bao người chiến sĩ vô danh
Tạc vào sông núi dáng hình  Việt  Nam


2-VÀI MẢNH CÒN LẠI  CỦA MỘT LIỆT SĨ TRẺ 

Một hạt trắng tựa hạt ngô 
Một chùm hoe đỏ xác xơ gió  nồm 
Một vài cọng cỏ xanh non 
Ba mươi năm lẻ vùi chôn đất này 
Hôm nay con đã về đây 
Theo chân đồng đội thăm thầy ,thăm u 
Quê nhà giờ đã khác xưa 
Dẫu thân tan nát,vẫn mơ cờ hồng 
Thầy u giờ đã lưng còng 
Vuốt ve con-những mảnh hồn trai tơ 


3-TỰ THẤY HỔ THẸN

Tuổi hai mươi
Anh đã hoá thân vào sông nước
Cho giang sơn gấm vóc mãi nở hoa
Sao thơ em chỉ than mây, khóc gió
Gần hết đời chưa đến nổi cái TA
Ngắm di ảnh
Nghĩ về những liệt sĩ chưa một lần chụp ảnh
Nước mắt nhạt nhoà
Xót xa.
Ta là ai ?
Là gì ?
Giữa vũ trụ bao la…

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014

HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM NHẬN BÀI THƠ" NHỮNG VẾT SẸO"...

Lời ngỏ:
Tình cờ vào thăm Thi đàn Việt Nam, Bùi Thị Sơn bắt gặp bài viết này của nhà thơ HUỲNH XUÂN SƠN ưu ái giành cho mình. Thú thật, BTS chỉ là cây bút nghiệp dư chứ không phải là nhà thơ đâu.Vì tôn trọng tình cảm yêu quý của HUỲNH XUÂN SƠN giành cho mình, BTS xin đăng nguyên vẹn bài viết của HUỲNH XUÂN SƠN trên blog của mình.
--------------------------------------------------------
HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM NHẬN BÀI THƠ "NHỮNG VẾT SẸO " CỦA NHÀ THƠ BÙI THỊ SƠN.
Khi nói đến Những Vết Sẹo, thông thường ta biết nó được hình thành từ nỗi đau. Vết trầy xước nhỏ trên da, nỗi đau sẽ ít và mau lành, để lại vết sẹo mờ, mau phai. Vết thương nặng khi liền để lại sẹo lớn và có khi là di chứng cả phần đời còn lại. Vết sẹo đớn đau nhất, vết sẹo khó liền nhất, đó là vết sẹo trong tâm hồn…Những Vết Sẹo ấy không nhìn thấy được bằng mắt, chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn, bằng trái tim người đối diện.
Tâm hồn rộng mở với trái tim nhạy cảm dạt dào tình thơ của nhà thơ Bùi Thị Sơn, đã ngân lên những cảm
xúc rất đặc biệt, khi chị cảm nhận được và chị “yêu những vết sẹo ấy..” Những vết sẹo lớn nhỏ, dầy, lõm và cả những vết sẹo trong sâu kín tâm hồn, trong đáy mắt người thương binh … Cũng chính là nhà thơ Phạm Thôn Nhân người chị đề tặng bài thơ
NHỮNG VẾT SẸO
Kính tặng blogger- thương binh Phạm Thôn Nhân
Có vết sẹo sần sùi dày cộm lên theo tháng năm dòng chảy
Vơi cho đời bao mất mát chiến tranh
Có vết sẹo hun hút khoét thịt da ngày đêm bỏng cháy
Lấp đầy mắt bé thơ sắc trời biếc trong lành
Có vết sẹo âm ỉ chỉ riêng anh nhìn thấy
Anh lẳng lặng giấu đi nhứ kho báu riêng mình
Em yêu vết sẹo ấy trong anh
Thản nhiên, anh mỉm cười, đứng dậy
Soi mắt anh, em thấy nước non mình
Mang hình chữ S và hai quần đảo Hoàng sa- Trường Sa muôn đời bất diệt!
Em yêu vết sẹo ấy trong anh!
Tổ quốc Việt Nam trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau ra trận chống giặc ngoại xâm. Từ thuở người Chinh Phu trong truyền thuyết Hòn Vọng Phu đã “theo lệnh Vua hành quân trống kêu dồn. Quan với quân lên đường…”…Cho đến những năm “trường kỳ kháng chiến”. Nhà thơ Phùng Khắc Bắc khi lên đường ra trận đã cảm nhận trong ánh mắt người cha đưa tiễn : “Bố tôi nhìn tôi bằng cái nhìn vuốt mắt”.
Người Chinh Phụ tiễn chồng đi và bồng con đến hóa đá vẫn chỉ “nghe như vó ngựa đâu trở về…”. Nhà thơ Phùng khắc Bắc là một trong số những người mà “hòn đạn mũi tên” tránh được người! Kết thúc chiến tranh may mắn trở về, dẫu khi đi cha ông đã “nhìn cái nhìn vuốt mắt”. Bao nhiêu người được may mắn nguyên vẹn trở về như ông ? chiến tranh đã cướp đi nhiều triệu người con nước Việt..Đã lấy đi một phần xương máu của biết bao triệu người nữa.
Tháng bảy về chỉ có một ngày tri ân. Thế hệ cháu con hôm nay phần đông nhớ “kẻ trồng cây” vào tháng bảy và có khi chỉ nhớ một ngày 27. Mười một tháng còn lại , cũng có thể với ba trăm sáu tư ngày còn lại kia bao nhiêu người còn nhắc nhớ tới những người lính trực tiếp cầm súng, trực tiếp hy sinh và trực tiếp gửi lại một phần máu xương nơi chiến trường. Hay họ cũng lại bị guồng máy xã hội phát triển cuốn vào trôi theo để rồi năm sau lại nhắc nhớ…
Tháng bảy năm 2014 nhà thơ Bùi Thị Sơn viết tặng nhà thơ, nhà khoa học, họa sĩ Phạm Thôn Nhân,người đã mang trên mình biết bao vết sẹo khi may mắn còn sống trở về. Những gì chị gửi gắm vào câu chữ có lẽ nhiều hơn tựa đề Những Vết Sẹo.
Mở cánh cửa để bước vào thế giới nội tâm mà chị gọi là Những Vết Sẹo. Ta bắt gặp ngay dấu tích của nỗi đau để lại. Những “vết sẹo” này nhìn thấy ngay được bởi nó “sần sùi dày cộm lên” dẫu bao nhiêu “tháng năm”. Hình ảnh của “ vết sẹo sần sùi dày cộm lên theo tháng năm dòng chảy” rõ ràng chẳng hề đẹp chút nào. Nhưng lại có một sức mạnh ghê ghớm hay có thể nói Vết sẹo đã làm được việc làm phi thường “vơi cho đời bao mất mát chiến tranh” . Chiến tranh mang đến bao nhiêu mất mát cho người lính cả hai bên tham chiến, cho người thân của họ, cho cả những người dân vô tội không may vướng hòn tên mũi đạn đi lạc.Tính riêng thời hiện đại mà cụ thể làngay trong thế kỷ hai mươi thôi. Một Điện Biên anh hùng… Một Thành Cổ Quảng Trị… Một Đại Lộ Kinh Hoàng… Một Thảm Sát Mỹ Sơn…Một Lộ Máu Số 7… Một Bình Long An Lộc…Một tết Mậu Thân…Một Hải chiến hoàng Sa… Một Gạc Ma…Một chiến tranh biên giới Tây Nam… Một chiến tranh biên giới phía bắc…Còn biết bao nhiêu chữ Một gắn liền những địa danh như thế nữa… Bao nhiêu địa danh là bấy nhiêu vết sẹo “sần sùi dày cộm lên…” Còn thêm những “vết sẹo hun hút khoét thịt da ngày đêm bỏng cháy” trên thân thể Mẹ Việt Nam. Không giấy mực nào tả hết, không có sử gia nào ghi hết, ghi đúng được…
Những vết sẹo trên thân thể người lính may mắn trở về có thể đã liền da, có thể những vết loét không bao giờ liền, và những vết thương lòng không có phép màu nào chữa khỏi…Làm sao chữa khỏi với những cảnh “Đỏ trên cây là máu bạn bè tôi”. Và : trên dải đất mang hình tia chớp./ Bao nghĩa trang là bấy vết sẹo lồi./ Những vết sẹo chìm trong tim người lính??? (trích thơ -Hải Minh)… Những phép đối ngẫu được tác giả khéo léo đưa vào khổ thơ này làm sức nặng của tình thơ, chở tình người trĩu xuống, oằn theo những câu thơ như khắc khoải, như gập ghềnh… “Vết sẹo sần sùi dày lên” cũng chính là vế đối rất nhân văn khi vế bên kia là “Vơi đi bao mất mát..” Rồi “vết sẹo hun hút khoét thịt da..” lại là vế đối đắt giá cho “lấp đầy mắt bé thơ sắc trời biếc trong lành”. Những vết sẹo này ta có thể nhìn thấy, cầm nắm và cảm nhận ngay được. Cùng với những điều tốt đẹp mang lại từ chính những vết sẹo ấy.
Tôi ơi! Bạn đọc ơi! hãy mở lòng ra, nhắm mắt lại, lắng nghe lời con tim, để cùng với nhà thơ Bùi Thị Sơn cảm nhận Những Vết Sẹo vẫn còn tiếp… Theo nhà thơ thì “em yêu vết sẹo ấy trong anh”. Vết sẹo bên ngoài dễ nhìn thấy và cũng dễ chữa. Nhưng với người lính từng tham gia chiến đấu thì lại mang trong mình thêm những “vết sẹo âm ỉ..” Hai từ “âm ỉ” khiến có cảm giác như nỗi đau đã liền sẹo đó vẫn đang Âm ỉ, gặm nhấm, đục khoét vết thương sâu rộng thêm ra, chứ chưa hề liền sẹo. Với câu thơ “có vết sẹo âm ỉ chỉ riêng anh nhìn thấy”. Có lẽ tác giả muốn nói đến vết thương lòng, vết thương trong tâm hồn chứ không phải vết sẹo này hình thành từ nỗi đau thể xác… Nhưng cớ vì sao mà theo sau lại là “Anh lẳng lặng giấu đi như kho báu riêng mình”. Thật khó lý giải cho một mệnh đề được tác giả đưa ra “Vết sẹo âm ỉ” …Rồi đóng sập ngay lại vì Anh muốn giữ làm “kho báu riêng mình. Nỗi đau nào rồi cũng nguôi ngoai, nếu như nhận được sự chia sẻ từ người thân bạn bè. “Anh lẳng lặng giấu đi như kho báu riêng mình” thì có lẽ đây là nỗi đau không thể chữa lành, và có lẽ cũng không thể san sẻ được…Bản thân người Lính khi ra trận đã không màng chuyện sống chết. Nay nỗi đau không thể lành lại, không thể sẻ chia thì đâu nỡ để them dù chỉ một người phải đau lòng khi biết..
Không chỉ nhà thơ Bùi Thị Sơn, Nhà thơ Phạm Thôn Nhân, những người lính mới cảm nhận được điều đó. Ta hãy xem những người bạn, người đồng đội và bạn đọc đã đang chia sẻ:
Đơn cử như tác giả Duy Sinh với:
“Vết sẹo lưu tích chiến tranh
Đau thương anh chịu.. ngọt dành nước non”
Hay như chính thơ của người được tặng viết:
“Những mảnh xương vụn nát
Cùng đất và cát
Lẫn lộn vào nhau…
…Nhắm mắt tay đưa nước mắt tuôn tràn
Cố ôm ấp một bóng hình đồng đội…(Hoa xương rồng trên cát- Phạm Thôn Nhân).
Với một vết sẹo như vậy, bây giờ có lẽ ít nhiều đã lý giải được vì sao nhà thơ Bùi Thị Sơn lại “yêu vết sẹo ấy..”. Có lẽ bởi chị yêu phẩm chất đạo đức và ý chí của người lính mang trong mình “vết sẹo âm ỉ” đau thương, mất mát không thể chia sẻ, chẳng thể xóa nhòa nên “Anh lẳng lặng giấu đi…”.
Bài thơ vẫn còn tiếp nối với hình ảnh một nụ cười trong mênh mông sóng nước…biển Đông đang cuộn nhồi những cơn sóng tạo ra từ lòng đất Mẹ Việt Nam.. Dẫu đã quá nhiều vết sẹo trên thân thể Mẹ đất nước…Xưa những chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa….Nay nhữngvết cắt “Hải chiến Hoàng Sa…”được “bồi thêm” vết cắt trên đảo Gạc Ma…Lại vừa có thêm một HD981 cắm mũi khoan vào lòng Mẹ…Nhưng tất cả những vết cắt ấy chưa thể làm đau gần như tất cả chín mươi triệu người dân Việt Nam…Với góc nhìn của riêng tôi thì có một vết sẹo của Mẹ Việt Nam mang trên mình đã bốn mươi năm…Vết thương sâu hun hút khoét vào thân thể mẹ bằng sinh mạng của 75 người con…để lại Vết Sẹo Hoàng Sa. Vết cắt Gạc Ma khoét thêm 64 người nữa…thêm một vết sẹo Gạc Ma…Những vết sẹo ấy có lẽ cũng chính là vết sẹo mà nhà thơ Bùi Thị Sơn nói “em yêu…” khi nhìn thấy trong đáy mắt người Thương binh cả “nước non mình…”
Với một trái tim quả cảm của người lính từng xông pha lửa đạn và đã gửi một phần thân thể lại chiến trường, thì hình ảnh : “Thản nhiên, anh mỉm cười, đứng dậy” sau những nỗi đau thân thể, nỗi đau tâm hồn . Đã đủ chứng minh tình yêu bao la với quê hương tổ quốc …Phải chăng Anh đứng dậy bởi có một vết sẹo khác nữa. mà tất cả các vết sẹo kia.. có lẽ chưa đau, chưa nhức nhối, chưa khoét sâu vào vết thương âm ỉ bằng nỗi đau hôm nay khi nghe quân thù gây hấn ngoài biển Đông…Nay đâm chìm tàu cá, mai phun vòi rồng uy hiếp…Ngang nhiên chiếm đóng cả quần đảo Hoàng Sa bốn mươi năm qua. Nay chúng tuyên bố chủ quyền một cách trắng trợn Lưỡi bò chúng thò ra muốn liếm trọn Biển Đông…Với tâm tư và cảm nhận như thế, ta sẽ thấy những câu thơ kết như lời khẳng định chủ quyền Việt Nam. Như tiếng lòng của chín chục triệu người dân Việt Nam đã được tác giả viết thay lời:
Soimắtanh,emthấynướcnonmình
Mang hình chữ S và hai quần đảo Hoàng sa- Trường Sa muôn đời bất diệt!
“Em yêu vết sẹo ấy trong anh!” Nào đâu chỉ riêng mình chị yêu mà tôi và có lẽ rất nhiều bạn đọc khác nữa cùng đã đang và sẽ yêu, tri ân, và nhắc nhớ “những vết sẹo” do chiến tranh để lại trên thân thể những người lính.. Chiến tranh cũng đã để lại “Những Vết Sẹo”là: những nghĩa trang hiện hữu và nghĩa trang vô hình…như một Nhật Lệ “Cả dòng sông là một nghĩa trang trôi”.Những dòng sông, ngọn núi, những tên đất, tên làng, tên đảo và quần đảo của thân thể Mẹ Việt Nam đã liền sẹo và chưa liền sẹo…
Một người thương binh nặng, một nhà khoa học, một hoa sĩ và cũng là nhà thơ đã được tặng thi phẩm Những Vết Sẹo…Trái tim ông có lẽ đã rung lên những nhịp đập dập dồn để rồi lòng yêu nước, tình thương nhân loại, Tình đồng đội, tình thi hữu và hơn hết cả là lòng nhân hậu, tấ cả đã hoà vào câu chữ được ông gửi gắm qua bài thơ Hội Nhập Sẹo…Tôi xin mượn lời ông để kết cho bài viết này.

HỘI NHẬP SẸO
Vết sẹo ơi! Sao mi chai lên thế !
Những bàn tay đầy sẹo bạn mi đây.
Cũng một thuở. Hình như, linh cảm thấy,
Sự dịu dàng đau đớn chốn bàn tay…
Thôi đừng nhé nhắc chi về quá khứ.
Thịt da kia cũng thịt da này!
Bom đạn đã xa về dĩ vãng.
Những bàn tay tiếp sức những bàn tay.
(Phạm Thôn Nhân)
Sài Gòn 15/7/2014
Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

NHỮNG VẾT SẸO

Kính tặng blogger- thương binh Phạm Thôn Nhân

Có vết sẹo sần sùi dày cộm lên theo tháng năm dòng chảy
Vơi cho đời bao mất mát chiến tranh
Có vết sẹo hun hút khoét thịt da ngày đêm bỏng cháy
Lấp đầy mắt bé thơ sắc trời biếc trong lành
Có vết sẹo âm ỉ chỉ riêng anh nhìn thấy
Anh lẳng lặng giấu đi như kho báu riêng mình
Em yêu vết sẹo ấy trong anh
Thản nhiên, anh mỉm cười, đứng dậy
Soi mắt anh, em thấy nước non mình
Mang hình chữ S và hai quần đảo Hoàng sa- Trường Sa muôn đời bất diệt!
Em yêu vết sẹo ấy trong anh!
( Bài cũ tặng anh Phạm Thôn Nhân ngày 27/7/2011)- 

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

CUỐI HÈ

Sen thoang thoảng suốt đêm dài
Hớp hồn mấy gã choai choai Dế mèn
Cào cào, Châu chấu đua chen
Hoa gạo đỏ ối cứ toen hoét cười
Nóng nung cháy thịt trời ơi!
Trách chi cái váy tuột rơi ban ngày

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

OI NỒNG


Đêm
con nhền nhện
tháo vòng
Mèo hoang 
điên dại
thét nồng nã yêu…
Ngày
gió hôn trượt
cánh diều
Chân bàn chỏng vó
tạc điều vu vơ…

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014

MƯA NON NGÀN

Tản văn   của  Phùng Hải Yến                                                                                                   
"Mưa nguồn chớp bể". Thứ "nước trời" tích tụ từ những đám mây đen nặng trĩu, những áng mây được hình thành từ hơi nước bốc lên phía bên kia dãy Trường Sơn, nơi nguồn cội của chúng.
Từ trước đến nay, dải đất hình chữ S gắn với nghiệp nhà nông. Thế nên mưa không chỉ là một hiện tượng tự nhiên bình thường, còn là bạn đồng hành thân thiết của những mùa vàng no ấm.
Phía bên kia dãy Trường Sơn, nơi nắng nóng gió lào, hơi thở biển khô hanh làm mặt đất se lại, vết nứt lỗ chỗ như người bị nẻ mùa đông. Những vạch ô như bàn cờ, như trận đồ bát quái của trời đất, những cánh đồng hạn oằn mình mong hạt nước. Cảm giác nơi này khát mưa vì nắng. Nhiệt độ như cái lò nung lớn, và mọi người phải trốn trong hộp diêm - mái nhà bé tẹo, nhờ làn gió tự tạo xua đi nóng nực kéo về.
Đối ngược với bên ấy, bên này dãy Trường Sơn họ hàng nhà mưa bắt đầu mở vũ hội của mình.
Ban đầu là những cơn mưa chớp nhoáng, đến rồi đi chỉ trong tích tắc. " Có cơn mưa nào lạ thế? Thoáng mưa rồi lại tạnh ngay, em chạy về em hỏi mẹ, mẹ bảo: mưa bóng mây".
Những cơn mưa tháng bảy ào qua, nhẹ và mát trong như bàn tay thiếu nữ độ xuân thì. Chúng chỉ đùa chơi trong không gian phút chốc. Chỉ đủ làm xanh nõn búp chồi, tô màu tươi mới lên cây trái. Cảnh vật sau mưa bừng lên màu sự sống. Còn chúng thì vội vã rủ nhau chạy nhảy trên tàng lá, mơn man hát lời tình ca tí tách.
Giọt mưa nô giỡn tạt qua má hồng cô gái mộng mơ vừa tan lớp về, nhẹ hôn lên tóc em bé đáng yêu chạy nhảy ngoài sân. Mưa rủ nắng cùng chơi, tạo ra chiếc cầu vồng bảy sắc. Chao ơi là đẹp! Mưa dễ thương quá!
Tháng 7 về... Mưa Tây Bắc như được mùa trẩy hội, nô nức, rộn ràng, nghe chừng vui vẻ lắm! Chả thế mà cô ca sĩ nào từng hát một giai điệu rất nhộn :" Giọt mưa mưa ngâu mưa ngâu, lá xanh trên cành thành lá biếc, giọt mưa mưa ngâu mưa ngâu, tròn xoe chiếc ô trên đầu".
Mưa ngâu- "nhà độc tài" chiếm hữu mùa tháng 7. Mưa kiêu hãnh vì mình có xuất xứ từ câu chuyện tình đẹp tuyện giữa nàng Ả Chức và chàng Ngưu xa cách một dải sông Ngân...
Giọt mưa tự mãn quá! Nó lớn dần lên, và sinh ra độc ác. Mưa cười khanh khách, nhảy nhót trên các mái nhà, lấy đi những khoảng trống khô thoáng. Mưa cười ngặt nghẽo, dùng mũi châm buốt lạnh xuyên thấu vào da người tím tái. Mưa rủ rê nhau họp thành bè lũ kéo xuống đường phá phách. Những con đường trong ngày đổi mới đẹp đẽ, sáng sủa là thế, vậy mà nó làm ngập trong màn nước đục ngầu; mưa nhấn chìm những vật cản trở lối đi, mưa chạy băng băng cùng với gió tạo cảnh khiếp hãi. Mưa vào hùa cùng mạch nước ngầm, các sông, hồ, ao, suối để gây nên bao thảm họa kinh hoàng.
Mùa nắng chạy trốn đâu mất. Chẳng kịp thương những cánh áo mỏng manh gặp mưa lạnh giữa đường, chẳng kịp thương lá hoa tơi tả trong mùa lũ, chẳng kịp thương những chiếc xe nửa chừng tắt máy, chẳng kịp thương những con đường bị đất đá theo mưa cuốn xuống, hòa vào sông... Cảnh vật như một gương mặt đẹp bị lĩnh nhát sẹo làm biến dạng, mất đi vẻ tươi tắn vốn có. Và làm tôi không quên màn mưa trút xuống phố hôm đó, hình như có một bản nhỏ - xứ quê xa của tôi - bị lũ ống tràn đến gây thảm họa xóa sạch vết dấu sự sống…
Chạnh lòng!

Mưa xứ Huế "xối xả", "trắng trời", còn mưa Tây Bắc "ảm đạm màu bùn non". Biết bao giờ mưa ngoan ngoãn nghe theo bàn tay cải tạo của con người? Và trở thành những giọt mưa có ích, chứ đừng "để trên mi ai bây giờ ướt đẫm mưa ngâu".

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

BẾP CỦA MẸ


Tản văn của Phùng Hải Yến
Nhớ tới gia đình, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí tôi là dáng mẹ ngồi bên chiếc bếp lửa từ lúc tù mù sáng. Ngoài sân, từng đụn sương mù sà xuống mặt đất càng làm cho trời tối hơn. Trong nhà yên ắng vì mọi người đang chìm trong những giấc ngủ ngon lành thì mẹ đã lụi hụi chất bếp, nấu cơm để sáng ra có cơm nắm cho cả nhà mang theo đi làm nương.
Mãi cho đến lúc mùi cơm gạo đỏ theo gió lan đến cửa buồng tôi, tôi mới trở mình, hít hà mùi lúa mới rồi ngồi dậy. Ngoài trời đã hửng sáng, sương mù chỉ còn giăng nhè nhẹ, tản mát trong không gian. Nhìn sang gian bếp, thấy mẹ đang cặm cụi gọt khoai tây. Công việc này chiếm khá nhiều thời gian vì hôm trước, tôi nghe mẹ than: “Khoai tây năm nay cho củ nhỏ quá”. Nhìn mẹ tỉ mẩn gọt từng củ khoai tây mất mùa chỉ nhỏ bằng ngón tay út, tôi sà xuống nũng nịu: “Con làm cùng mẹ cho nhanh”. Mẹ cười hiền: “Thôi, ra sau nhà rửa mặt đánh răng rồi vào ăn sáng còn đi, con”.
Tôi thường nghĩ: trong gia đình, mẹ là người tất bật nhất. Ngoài những buổi làm việc vất vả trên nương, rẫy, lúc nào tôi cũng thấy mẹ không ngơi tay làm việc nhà. Hình như mẹ luôn nghĩ rằng hôm nay nên nấu những món ăn gì cho bố con tôi. Nhiều việc là vậy, nhưng chẳng khi nào trên nét mặt mẹ vương vẻ buồn bã, mệt mỏi. Gương mặt lấm tấm mồ hôi ấy luôn sáng bừng niềm vui mỗi khi thấy bố con tôi ăn ngon miệng. Thì ra, đó là hạnh phúc lớn lao của đời mẹ...
Tôi nghe bố kể rằng chiếc bếp của mẹ chính là do bàn tay của bố làm nên. Bố thưng gỗ 3 phía rồi dùng đất sét nện chặt, sau đó khoét 2 lỗ ở bên trên vừa đủ đặt nồi cơm và ấm đun nước. Ở bếp đặt ấm đun nước, bố cũng chỉ khoét 2 lỗ bên cạnh để bỏ củi nhóm lò, nhằm tận dụng ngọn lửa. Bố giải thích: “Như thế, mẹ chất 1 bếp có thể nấu được cả 2 bên: bếp phía trong ít lửa hơn thì để ủ cơm nóng hoặc hầm thức ăn. Mẹ sẽ bớt mệt hơn khi ngồi nấu ăn trong bếp”... Lớn lên rồi tôi mới hiểu, ở thời đại bây giờ, chúng tôi có thể sắm cho vợ chiếc bếp ga thuận tiện. Ngày xưa, người đàn ông nghèo khó như bố tôi, bằng tình yêu thương cũng có thể san sẻ nhọc nhằn với vợ bằng chiếc bếp tự tạo...
Hai mươi năm trôi qua, bố tôi đã khuất núi, trở về nằm cạnh ông bà, tổ tiên. Tôi thu xếp công việc cơ quan rồi cùng vợ, con về làm giỗ bốn chín ngày cho bố. Chiếc xe con sang trọng dừng lại ở ngôi làng nghèo khó. Tôi bước qua bậc cửa gỗ cao vào trong bếp. Nhìn từ đằng sau mới thấy mẹ tôi đã già, cái lưng khom bốn mùa vì leo núi, giờ còng xuống chất bếp nấu cơm chờ đứa con xa lâu ngày trở lại quê hương... Tiếng mẹ trầm đục vang lên: “Thằng Mìn sắp bát đũa ăn cơm”. Tôi – quên mất mình nay đã là cán bộ tỉnh, lại chạy loăng quăng giúp mẹ như thuở trước...
Bữa cơm gia đình vẫn giản đơn như ngày tôi còn thơ bé. Bên cạnh những đĩa thịt, rau, mẹ đặt thêm một đĩa khoai tây trước mặt tôi. Rồi mẹ xúc thêm một bát, đặt đôi đũa và lấy thêm ghế mây đặt vào góc bố thường ngồi. Thấy mẹ đờ đẫn nhìn khoảng không gian ấy. Vợ tôi bảo: “Năm nay chúng con xin phép được đón mẹ ra nhà con ở cùng cho có mẹ, có con. Cháu Tuấn có bà trông dạy”. Mẹ lắc đầu: “Cảm ơn các con... nhưng gian bếp của mẹ chất đầy kỷ niệm về bố... mẹ không xa được”. Tôi gượng cười: “Thế con mua tặng mẹ một chiếc điện thoại để thỉnh thoảng lại được nghe giọng mẹ nói”. Mẹ xoa tay: “Không cần, mẹ chỉ mong cuối tháng, vợ chồng con cái về ăn bữa cơm mẹ nấu...”.
Tôi lặng đắng người khi nhìn chiếc bếp kỷ niệm bố làm tặng mẹ ngày về nhà mới. Bố ơi, biết mùa này ai cùng mẹ lên nương trỉa ngô, phát cỏ để trồng vụ sau?

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM NHẬN BÀI THƠ "NÓNG "...

HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM NHẬN BÀI THƠ "NÓNG "...

Người viết:Huỳnh Xuân Sơn
( Thi đàn Việt Nam)
Màu lửa hạ bừng cháy trên khắp các tàng cây Phượng Vỹ. Tiếng ve thúc giục buổi chia tay rộn rã khắp nơi. Mùa hạ đã thực sự về trong tâm trí mỗi người và nó mang theo nắng nóng đổ khắp ba miền của dải đất hình chữ S. Nhiệt độ ngoài trời có nơi lên đến 39 độ. Nhưng có lẽ cái nóng của thời tiết chẳng thể bì với cái nóng của thời sự, cái nóng dội về từ ngoài thềm lục địa suốt cả tháng nay. Nơi ấy kẻ thù truyền kiếp mấy ngàn năm nhăm nhe cướp nước lại vừa mới thực hiện hành động lấn chiếm. Mang giàn khoan Hải Dương 981 cùng máy bay, tàu chiến và hàng trăm tàu cá công suất lớn vào biển đông. Không cần đánh bắt hải sản, mà chỉ nhằm mục đích đâm trực diện vào tàu cá của ngư dân Việt Nam, đang đánh bắt hải sản trên ngư trường thuộc chủ quyền của nước ta. Bất kể đến sự sống chết của ngư dân Việt trên tàu.. Mục tiêu của tàu quân sự Trung Quốc là phun vòi rồng và đâm thẳng
vào tàu của lực lượng cảnh sát biển và lực lượng Hải Giám của Việt Nam... Sự việc kéo dài cả tháng nay thật đau xót khi tàu cá DNa 90152 của ngư dân ở Đà Nẵng đã bị đâm chìm…may mắn các ngư dân đã được tàu cảnh sát biển và lực lượng hải giám cứu thoát…
Sóng biển đông gào thét phải chăng nó cũng góp phần đòi Trung Quốc rút giàn khoan trả lại chủ quyền cho chủ nhân đích thực. Sóng lòng căm phẫn của người dân việt dâng cuồn cuộn từ già trẻ gái trai…đâu đâu cũng sôi sục.
Các nhà thơ của chúng ta hẳn nhiên không đứng ngoài những con sóng ấy! Nóng ra đời từ một nữ công dân Việt Nam, góp một ngọn gió thổi bùng tình yêu quê hương tổ quốc của chín mươi triệu con tim đang Nóng theo tiếng sóng dội về từ biển Đông
Nóng
Tháng 5 nóng hay lòng ta nóng
Ngàn kiến kim cắn xé thịt da
Đêm ngủ chập trờn trong tiếng sóng
Biết tim mình đập phía Trường Sa. (24/5/2014-Bùi Thị Sơn)
Bài thơ chỉ bốn câu theo thể tứ tuyệt. Ngay câu đầu chị đã hâm nóng tình yêu tổ quốc bằng một câu hỏi. Chị hỏi ai? Và mong ai trả lời cho chị câu hỏi này? “Tháng năm nóng hay lòng ta nóng” hẳn nhiên là chị đã tự hỏi mình! Nhưng khi đọc tôi lại cũng tự hỏi mình câu hỏi ấy? Và có lẽ sẽ có nhiều bạn đọc cũng sẽ tự hỏi lòng mình câu hỏi này!
Như đã nói ở phần đầu. Nóng tháng năm sẽ chẳng thấm vào đâu so với cái nóng của thời sự..cái nóng bắt nguồn từ sự an nguy của tổ quốc. “Nóng trong lòng” mới là cái nóng đáng sợ, chẳng có máy lạnh, quạt máy. Hay cơn gió nào có thể hạ nhiệt…
Thơ tứ tuyệt vốn chỉ có hai mươi tám chữ.Nên người viết rất ít khi dùng điệp từ, Tác giả của chúng ta sử dụng hai từ Nóng tạo ra một điểm nhấn cùng với tựa bài cũng chỉ một chữ Nóng…Hiệu quả của nó hẳn không cần phân tích ai cũng thấy Nóng….theo từng con chữ của chị. Và có lẽ cũng chẳng ai ngạc nhiên khi chị viết “
Ngàn kiến kim cắn xé thịt da
Nếu chỉ nóng ngoài trời thôi thì cũng đã bực bội với đám rôm sảy quấy rầy…đằng này thêm cái nóng trong lòng dồn dập, nay chúng phun vòi rồng bị thương, mai chúng đâm tàu chấp pháp của Việt Nam…và rồi người bị thương, tàu cá của ngư dân bị chìm….những nhức nhối ấy khiến nữ thi sĩ của chúng ta không thể yên khi cảm thấy cả “ngàn kiến kim” đang “cắn xé thịt da” mình!
Cái cảm giác không yên ả theo chị vào cả trong giấc ngủ. Nhưng “Đêm ngủ chập chờn trong tiếng sóng” chứ không phải bởi lũ “kiến kim”. Phải chăng ngay cả khi mơ màng trong giấc ngủ chị cũng chỉ nghĩ tới Biển. Tiếng sóng dội về từ ngoài khơi xa ấy, mang theo bao căm hờn với quân cướp nước. Mang theo cả tâm tình những người lính đang canh giữ biển. Và, có cả tiếng lòng của biết bao người ngư dân đang ngày đêm bất chấp hiểm nguy vươn khơi bám biển góp phần giữ lãnh hải thiêng liêng của tổ quốc. Còn có trong lòng những con sóng dáng hình những chàng trai làm nhiệm vụ cảnh sát biển, cũng như những cán bộ làm công tác kiểm ngư đang ngày đêm đối mặt với vòi rồng với mũi tàu đâm trực diện của quân Trung Quốc. Có lẽ chị đã nhận ra căn nguyên của giấc “ngủ chập chờn..” nên chị “Biết tim mình đập phía Trường Sa.”
Một bài thơ ngắn nhưng tình thơ thì trĩu nặng, hồn thơ thì mênh mông và Nàng thơ thì có một tình yêu bao la với tổ quốc…
Chị đã thắp nên một ngọn lửa! ngọn lửa ấy sẽ lan toả…
Trái tim chị sẽ không đơn độc khi “đập phía Trường Sa” đâu. Chín mươi triệu người dân Việt Nam và rất nhiều triệu triệu người dân Việt trên thế giới cũng như người dân các nước khác đã, đang và sẽ “đập phía Trường Sa” cùng chị. Bởi Trường Sa, Hoàng Sa là chủ quyền thiêng liêng không thể chối cãi của tổ quốc ta.
Cám ơn tác giả Bùi Thị Sơn đã viết bài thơ Nóng. Cám ơn Bích Câu Thi Quán đã đăng tải, để tôi có dịp chiêm nghiệm. đồng hành và nói lên suy nghĩ của mình. Có thể với góc nhìn phiến diện này tôi chưa thể lột tả được hết những vẻ đẹp từ bài thơ của chị. Mong tác giả và bạn đọc hãy coi đây là tình cảm của cá nhân tôi giành cho một bài thơ mà tôi đồng cảm
Sài Gòn 6/6/2014
Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

NÉM

NHÂN NGÀY GIA ĐÌNH VIỆT NAM 28/6, GÁI NÚI XIN KÍNH CHÚC CÁC BLOGGER LUÔN MẠNH KHỎE, CÙNG CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH MÌNH XÂY DỰNG MỘT GIA ĐÌNH NO ẤM, BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC NHÉ!
Nhân dịp này, Gái Núi xin chép lại một bài thơ tặng bạn đời của mình , mọi người đọc và góp ý giùm nhé !
-------------------------------------------------------
NÉM
Ai ném hòn đá cuội
Vào chiếc kẻng cũ xưa
Tiếng reng…reng yếu ớt
Rơi vào cõi hư vô
Ai ném cây chuối khô
Ra dòng sông chảy xiết
Sóng chồm lên vĩnh biệt
Một linh hồn bơ vơ
Từ xa lắc xa lơ
Ai ném anh vào em
Chúng mình thành chồng vợ
Cõi trần thành cõi tiên
Sìn Hồ, ngày 1/3/2006
BTS

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

CHÙM THƠ TÌNH CHO NGÀY TÌNH NHÂN

CHÙM THƠ TÌNH CHO NGÀY TÌNH NHÂN

1- NGỎ
Anh viết lời thơ yêu
Như cây
Buổi xế chiều trút lá
Dù cánh cửa buồng Xuân đã khóa
Chồi non xuân
vẫn mọc lên hối hả
Như chiếc nơ kỳ lạ
Điểm xuyết trên mái đầu phủ tuyết Sa Pa !
2- CÁNH MAI VÀNG
Cánh mai vàng phôi phai theo năm tháng
Nhưng sắc vàng còn thắm mãi trong tôi
Tôi nâng niu góc thần tiên lãng mạn
Trên tay lấp lánh ánh sao trời !
3-VA LETINE
Anh không biết ngày Va letine
Ngày tình yêu muôn đời bất diệt
Mỗi lần anh đắm đuối ngắm nhìn
Em biết:Anh tha thiết yêu em!
Em chẳng cần quà Vale tin
Thứ quà vật chất dễ kiếm tìm
Anh đến...trời xuân dịu dàng hát:
Va letine!
Va letine!