Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

XUÂN MUỘN


Truyện ngắn của Bùi Thị Sơn (đăng lại)
Thi sĩ giật mình tỉnh giấc. Quờ tay sang bên trái, chẳng thấy nàng đâu. Quờ tay sang bên phải, cũng chẳng thấy nàng đâu. Mùi chè ướp hương nhài vẫn thoang thoảng đâu đây. Chiếc rèm cửa bằng lụa tơ tằm vàng óng lay lay như bóng dáng người đẹp còn lẩn khuất hư hư thực thực...
Đã nhiều người đẹp lưu lại thư phòng này. Đó là những người hâm mộ thơ tình của ông suốt nửa thế kỷ qua. Họ đọc thơ ông - hồi hộp, run rẩy. Họ kiếm tìm mọi lý do để được gần ông - Từ lúc ông còn là thi sĩ có mái tóc bồng bềnh cho đến khi mái tóc ngả màu muối tiêu. Họ là những cô tiểu thư khuê các, mộng mơ của một thời quá vãng, người giàu có sang trọng như một mệnh phụ phu nhân, người là vợ của một vị tướng oai phong lừng lẫy, đánh đông dẹp bắc. Họ không thoả cơn khát tình với những ông chồng đạo đức sáng ngời hay những ông chồng võ biền "dùi đục chấm mắm cáy". Họ muốn tìm ở ông hơi thở nồng nàn quyến rũ, họ muốn được yêu, được sống hết mình... Đến thư phòng của ông còn có những cô sinh viên mơ mộng. Họ tôn thờ, thần tượng là ông, sẵn sàng sống với ông từng giờ từng phút theo một triết lý sống:
"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt
trăm năm".
Có lần, vô tình những người hâm mộ "đụng độ " nhau. Cô sinh viên trẻ lễ phép:
- Chào bà ạ!
Tiếng "ạ" kéo dài như mỉa mai, khinh bỉ... Rồi cô quét ánh nhìn soi mói lên mái tóc phi dê đã nhuộm lại, bộ ngực căng mẩy giả tạo nhờ độn thêm mấy lần "mút", bộ mặt bự phấn của người đàn bà đã qua thời "vàng son" - một cái nhìn đầy ác ý. Người đàn bà không phải tay vừa, nàng đánh nửa con mắt qua mặt "con chíp hôi", rồi quay lại thi sĩ với cái nhìn tình tứ, mơ màng và giọng nói nhẹ như cơn gió thoảng:
- Anh còn nhớ bài thơ tình đầu tiên anh tặng em dưới rặng liễu ven Hồ Tây không?
Thi sĩ vốn nhạy cảm, không muốn mất lòng ai. Chàng nhìn cô sinh viên trẻ măng với ánh nhìn của người anh cả - thân thương, trìu mến nhưng nghiêm nghị, xa cách:
- Trang Trang vào thư phòng đi! Thầy tiễn khách rồi sẽ quay lại trao đổi tiếp vởi em về chủ đề hôm qua.
Rồi chàng quay sang "người đẹp quá vãng":
- Hoài Thi về nhé! Nếu thu xếp được, tôi sẽ đến thăm vợ chồng bạn vào một ngày gần nhất".
Lời nói nhẹ nhàng, chuẩn mực không thể trách cứ vào đâu được...
Đó là lần đầu "đụng độ" nhau khi họ mới tìm đến hoặc gặp lại thi sĩ. Họ đi tìm và ngộ nhận cái "nửa kia đích thực" của mình...
* * *
Lần thứ hai... Trang Trang trong bộ đồ quần ống típ trắng, áo phông hồng, trẻ trung, hiện đại, nhảy chân sáo từ thư phòng thi sĩ bước ra... Bình minh vừa nhô lên - khoảng không gian bừng sáng, chan hoà ánh nắng. Nàng nhẹ nhàng cúi xuống khóm hoa hồng nhung, đặt môi hôn hờ lên cánh hoa đỏ thắm, khe khẽ nhắm mắt lại tận hưởng mùi hương hoa nồng nàn quyến rũ... Tai nàng còn văng vẳng lời thơ đắm say, mãnh liệt: "Hôn thật khẽ, thật êm. Hôn êm đềm mãi mãi. đã hôn rồi hôn lại. Như nghiến nát bờ em."Bỗng nàng rùng mình, khìn khịt mũi đánh hơi - mũi nàng tinh như mũi chó sói. Nàng nhận ra mùi nước hoa ngoại đắt tiền của kẻ "tình địch". Nàng mở mắt ra, sa sẩm mày mặt khi thấy người đàn bà “cập kề” tuổi năm mươi trong bộ đồ mỏng tang màu hoàng yến ôm sát những đường cong gợi cảm (đường cong thật hay là thủ thuật của đám đàn bà nhờ chồng mà xài tiền như nước?). Rất bản lĩnh, nét mặt nàng trở nên ngây thơ, trong sáng. Nàng lễ phép thưa rằng:
- Chào bà! Bà lại đến nghe thơ đấy ạ! Cháu phải về lên giảng đường học. Bà cứ ở lại đàm đạo văn chương với thầy nhé !
Sáng nay, Trang Trang vui lắm. Như thường lệ, nàng dậy từ lúc năm giờ sáng để chạy bộ cùng hai cô bạn gái trong ký túc xá. Ngọn gió mát lành lùa vào chân tóc, mái tóc thề ngang vai tung tẩy bay bay theo nhịp chạy. Đôi gò vú tròn lẳn, chắc nịch như hai nắm xôi cũng dâng lên hạ xuống theo nhịp chạy. Nàng vừa chạy vừa hít sâu lồng ngực để luồng không khí trong lành thấm tận vào từng đường gân thớ thịt. Đột nhiên, nàng nhớ đến thi sĩ cô đơn có cặp mắt mơ màng và mái tóc bồng bềnh vương trên đài trán... Nàng lừa hai đứa bạn, cố tình chạy chầm chậm, rồi bất ngờ đến khu đường ngoặt, nàng lao chạy như điên đến hiên nhà thi sĩ. Ông ngạc nhiên khi nghe tiếng đập cửa uỳnh uỳnh, rồi cô trò nhỏ lao sập vào ông, đổ oặt cái thân mình mềm mại nóng hôi hổi lên vai ông. Ông nhẹ nhàng hỏi:
- Trang Trang! Em làm sao thế ?
- Không sao đâu thầy ạ! Em rất, rất vui. Và tự nhiên em nhớ đến thầy...
Thi sĩ thoáng rùng mình. Vì cảm động? Vì bất ngờ? Vì sao nữa? Ông biết cô bé mười tám tuổi xinh đẹp ngây thơ này đã khiến bao chàng sinh viên và các ông thầy trẻ xao xuyến mất ăn mất ngủ mà cô dửng dưng vô cảm chẳng muốn nhìn đến ai. Ông thì đã ngoại lục tuần với biết bao cay đắng trên tình trường. May mà ông có được cái tài nên tổ chức cứ níu kéo ông ở lại giảng dạy cho các sinh viên văn khoa thêm một vài năm nữa. Tình cảm của cô bé mộng mơ này cũng chỉ là tình cảm bồng bột nhất thời như những cô bé lớp đàn chị của cô. Tốt nhất là nên tạo ra một khoảng cách an toàn để cô bé khỏi vỡ mộng sau này và cũng để trái tim mình đừng thêm một lần nữa rỉ máu. Ông nhẹ nhàng nâng đầu cô ra khỏi bờ vai xương xẩu của mình:
- Bình tĩnh nào cô bé! Em trở về lên lớp học đi! Đừng trêu đùa lão già này nữa.
- Không! Em không phải là cô bé. Em mười tám tuổi rồi. Thầy cũng không phải lão già. Thầy còn độc thân và tâm hồn thầy còn rất trẻ. Em đã đọc hết các tập thơ tình của thầy - Em ngưỡng mộ thầy và em yêu thầy thật lòng.
- Thôi nào, cô bé, về lên lớp học đi. Rồi có ngày em sẽ thấy ân hận.
- Em không ân hận. Em muốn được thầy hôn...
Để chiều lòng cô bé và cũng không cưỡng nổi lòng mình, thi sĩ nhẹ nhàng ôm cô bé, nâng mặt cô lên và hôn vào giữa trán cô. Cô mỉm cười sung sướng:
- Em cám ơn thầy! Em lên lớp đây!
Cô đem theo cả hơi thở ấm áp và nụ hôn phớt nhẹ, không gợn chút dục tình của thần tượng lên lớp ...
Hoài Thi nhẹ nhàng len qua luống thược dược đỏ thắm, khe khẽ cất tiếng chào từ sau lưng thi sĩ :
- Anh ạ !
Thi sĩ đang mải miết nhìn theo một cánh én chấp chới phía trời xa, khẽ rùng mình thảng thốt:
- Em đấy ư ?
Giọng nói chàng nhẹ bẫng như trôi từ một cõi hư vô nào đến. Đôi gò má chàng phơn phớt hồng tựa hình ảnh chàng cách đây bốn mươi năm về trước. Hoài Thi chợt hiểu ra: Chàng xúc động nhường ấy - đương nhiên trái tim chàng lại thêm một lần nữa run rẩy: "Lại một lần nữa ta mất chàng - Cái con bé chíp hôi có gương mặt bừng sáng, ngây thơ, thánh thiện và giọng nói ríu rít như chim... nó đã kịp làm xiêu lòng chàng... ừ mà cũng tại ta... Hồi ấy ta còn trẻ trung xinh đẹp, biết bao kẻ vây quanh... Chàng thi sĩ nghèo nhưng có trái tim nhạy cảm, nhân hậu... Giờ thì ta đã có rất nhiều: Nhà cửa, tiện nghi, chồng thành đạt, con trai con gái khôi ngô, xinh đẹp, học hành giỏi giang... Ta chỉ thiếu một trái tim yêu thương nồng nàn quyến rũ, có đốt đuốc đi tìm dưới gầm trời này cũng chẳng tìm nổi người thứ hai như chàng... Khi ta tìm gặp lại chàng - chàng không hề oán trách nhưng lịch thiệp tạo ra khoảng cách... Chẳng có lẽ ta chẳng là gì trong mắt chàng?". Hoài Thi bỗng cảm thấy chóng mặt, mắt hoa lên, nàng luống cuống vịn vào cây thuỷ trúc có dây hoa sao mỏng mảnh, đỏ tươi như máu quấn quanh rồi từ từ quỵ xuống... Chân nàng vô tình đá phải chiếc ô doa đặt cạnh cây thuỷ trúc khiến nó lăn lông lốc và phát ra tiếng kêu lọc cọc. Thi sĩ giật mình quay lại, chàng vô cùng hoảng hốt khi nhìn thấy Hoài Thi gần như trong trạng thái bất tỉnh. Chàng xốc Hoài Thi vào thư phòng, lấy khăn mặt dấp nước âm ấm đặt lên trán nàng, lấy dầu gió xoa khắp cổ, tay cho nàng. Chàng ý tứ không nhìn xuống khuôn ngực trần sau lần áo mỏng tang... Một lát sau, Hoài Thi từ từ mở mắt... Nàng nhìn không chớp vào bức tranh thiếu nữ treo trên tường với khuôn mặt đẹp thánh thiện như Đức Mẹ Đồng Trinh và chợt nhớ ngày xa xưa thi sĩ cũng từng gọi mình như thế! Nàng quay sang nhìn thi sĩ nồng nàn đắm đuối, đôi mắt đen ngời sáng dưới đôi hàng mi cong vút không chớp... Ký ức ùa về ào ạt - đã bao đêm chàng vấn vương mơ tưởng đến con người này, giờ nàng đã hiện ra bằng xương bằng thịt ngay trước mắt chàng - không mơn mởn, ngây thơ, e ấp như mấy mươi năm về trước mà từng trải, đằm thắm, tự tin, quyến rũ... Chàng từ từ cúi xuống hôn lên mắt nàng - đôi mắt long lanh, diễm lệ... Hoài Thi mơ màng tận hưởng nụ hôn thần tiên mà người tình trong mộng ban tặng cho nàng. Nàng lim dim đôi mắt đẹp, như nấn ná, như khích lệ, như chờ đợi một điều gì nồng nàn hơn thế nữa...
Tiếng chuông đồng hồ đổ dồn. Thi sĩ như bừng tỉnh. Chàng vò đầu, gãi tai như một cậu bé có lỗi:
- Hoài Thi về nhé! Xin lỗi em,mình phải lên lớp tiết bốn...
Hoài Thi ngước đôi mắt đẹp ầng ậng nước, cất giọng giận dỗi:
- Vâng... Thầy có việc thầy cứ đi, em sẽ về ngay, không làm mất thời giờ của thầy...
* * *
...Lần thứ ba...Trang Trang mặc áo đầm màu hồng phấn, hai bím tóc nhỏ xíu như đuôi chồn ngoe nguẩy. Nàng cầm trên tay tập thơ tình như một vật trang sức, một cái cớ đến gặp ông thầy khả kính của mình... Nàng tinh nghịch huýt sáo một bản tình ca với âm điệu vui tươi, nhí nhảnh của thảo nguyên mênh mang xa vắng... Suýt nữa nàng va phải Hoài Thi khi bà này từ thư phòng thi sĩ bước ra, đôi mắt ngấn lệ tràn trề thất vọng...
- Chào bà! Sao bà về vội thế? Bà nán lại một chút cùng thầy và cháu thưởng thức một ly cà phê Ban Mê mẹ cháu vừa gửi ra, bà nhé!
Trang Trang vẫn tỏ thái độ lễ phép, lịch thiệp mà cao ngạo của một người tự ý thức được thế mạnh vượt trội của mình so với đối phương... Thấy bà này gật đầu, rảo bước như trốn chạy, như thất bại, nàng cảm thấy vừa đắc ý vừa thương hại bà ta... Nhưng rồi nàng lại nghĩ: "Bà ta có kinh nghiệm trên tình trường - có thể lần này bà chưa chinh phục được thầy, nhưng biết đâu được...". Cô nữ sinh mơ mộng đã học lỏm được vài chiêu trói buộc người tình qua các trang tiểu thuyết vừa đọc... Nhưng cô đã lầm. Người thất bại thảm hại lại chính là thần tượng của cô - Hoài Thi chỉ là người thất vọng trước sự thực phũ phàng...
"Ta khác!". Trang Trang kiêu hãnh nghĩ và yểu điệu lướt qua trước thầy. Thi sĩ xua tay, đôi mắt tuyệt vọng như con thú bị thương:
- Em về đi! Về đi! Tôi mệt.
Trang Trang tối sầm mặt mũi:
- Chỉ vì người đàn bà kia ư, thầy?
Thi sĩ uể oải lắc đầu... Trang Trang đành lặng lẽ bước khỏi thư phòng...
Biết tin thi sĩ ốm, Trang Trang còn mua hoa quả đến thăm ông hai lần nữa. Tự tay nàng bóc cam mời ông ăn, ông cũng chỉ buồn bã lắc đầu. Lòng tự ái của cô gái trẻ đẹp bị tổn thương, nàng nghiêng mình kính cẩn:
- Chào thầy!
Rồi lặng lẽ ra về, bụng bảo dạ: "Ta quý tài văn chương, ta yêu tâm hồn chàng và ta cũng muốn chàng hết mình với ta. Xung quanh ta thiếu gì chàng trai trẻ ve vãn, tán tỉnh..."
* * *
Sau hơn tuần nghỉ ốm, thi sĩ lên lớp với bộ mặt gầy sọm, râu ria sợi đen sợi trắng đua nhau mọc tua tủa. Ông cố tránh không để ý đến Trang Trang nhưng nàng lại cố tình cười nói lả lơi với mấy chàng sinh viên trẻ măng như cố tình chọc tức ông... Thời gian sau, ông nghe tin nàng... chửa hoang, chẳng biết với ai nữa, nhà trường đang họp hội đồng kỷ luật để xử lý nàng, răn đe làm gương cho kẻ khác. Nàng phớt đời, ngạo nghễ đi giữa mọi người với chiếc bụng lùm lùm sau lần áo mútxôlin mỏng tang màu hoàng yến... Một lần, nàng cố tình đợi ông đi ngang qua và nói rất nhanh:
- Tất cả là tại thầy, thầy làm em vỡ mộng.
Nước mắt nàng lã chã tuôn rơi. Mặc dù biết lời trách cứ đó là vô lý (ông có bao giờ hứa hẹn làm cho nàng nuôi hy vọng đâu) nhưng ông vẫn cảm thấy xót xa, thương nàng vô hạn.
Dạo này thi sĩ cũng hay gặp Hoài Thi. Nàng luôn sánh đôi bên chồng trong những buổi đi xem hoà nhạc hoặc đi dạo trên đường phố, xem ra rất tình tứ và ngập tràn hạnh phúc. Ông chồng võ biền "dùi đục chấm mắm cáy" giờ đã đeo lon đại tá và có phần bệ vệ hơn trước. Nhìn thấy thi sĩ từ xa, Hoài Thi chủ động khoác tay chồng và đon đả chào chàng trước:
- Lâu rồi không gặp anh. Anh vẫn khỏe chứ ạ? Sao anh lại đi có một mình?
Thi sĩ lịch sự bắt tay người chồng và đáp lại qua quýt... Chàng biết rõ Hoài Thi đang đóng kịch. Nàng lừa chàng, lừa chồng, lừa mọi người và tự lừa dối chính mình. Cuộc sống giàu sang trong nhung lụa không làm nàng hạnh phúc. Thi sĩ nhận rõ điều đó qua ánh nhìn mỉa mai, khiêu khích, oán giận, trách móc của nàng. Trái tim đa cảm của chàng lại ngập tràn thương xót: "Cuộc đời mỗi người có một nỗi khổ riêng - ta thương nàng nhưng chính ta - chính ta là con người bất hạnh nhất "... Chàng lừ đừ bước vào phòng tắm. Tự ngắm mình trong chiếc gương lớn treo đối diện bồn tắm, chàng buồn rầu nhận ra những vết chân chim hằn trên mí mắt: "Ôi! Ta đã già, ta đã già thật rồi !" Chàng uể oải, hờ hững cởi bỏ bộ đồ ngủ kẻ sọc xanh trắng, tự nhìn ngắm thân thể mình trong gương: "Vòm ngực, bắp tay ta vẫn còn săn chắc - đó là do ta làm việc, sinh hoạt điều độ và tâm hồn ta còn rất trẻ - Chàng tự nhủ - Đàn bà, con gái vẫn mê thơ tình của ta". Đôi mắt chàng đang từ từ đảo xuống phía dưới phần bụng trắng hồng, thon lẳn bỗng ngây đờ ra, đau đớn tột độ: "Trời ơi! Sao lúc nào nó cũng tím tái, ủ rũ, u buồn đến vậy? Tất cả là tại nó... tại nó... tại nó. Ta đâu phải là đức thánh như các bà, các cô từng nghĩ, từng rỉ tai nhau trong những lúc thất tình ê chề. Ông trời thật bất công hay thật công bằng khi cho ta tâm hồn đa cảm, tài thơ thiên bẩm nhưng lại không cho ta hạnh phúc được hưởng thú vui trần tục như mọi người đàn ông bình thường khác? Tại sao? Tại sao lũ đàn bà, con gái đều ỏn ẻn nói rằng mến tài thơ của ta, yêu tâm hồn ta nhưng khi thấy ngoài nụ hôn nồng nàn say đắm ban tặng họ, ta không thể tiến xa hơn được nữa - họ sẵn sàng bỏ rơi ta? Chẳng lẽ họ chú trọng đề cao nhục dục đến thế?". Bực mình, chàng khoác hờ chiếc khăn tắm lên mình rồi ra ngồi bàn viết, quyết định không tắm nữa:
"Đến bao giờ ta mới gặp được em?
Người con gái đoan trang không màng danh lợi
Nàng yêu ta ở phần hồn thánh thiện
Không cúi mình trước nhục dục tầm thường..."
Viết đến đó, nước mắt chàng trào ra - nỗi buồn thầm kín này chỉ riêng chàng tỏ: Khó tìm lắm - chàng lẩm bẩm một mình rồi gục xuống bàn, thiếp đi...
* * *
Người thiếu phụ trong bộ đồ tơ tằm trắng muốt nhẹ nhàng bước đến bên chàng cất giọng chế giễu:
- Này thi sĩ! Đường đường là một đấng nam nhi mà chàng phải đau buồn vì một việc cỏn con đó sao? Có gì uẩn khúc ở trong lòng, chàng cứ viết ra để giải toả...
Chưa có một người đàn bà con gái nào dám nói với chàng bằng cái giọng vừa thân mật vừa kẻ cả như thế. Chàng dụi mắt, sững sờ trước vẻ đẹp phồn thực hiển hiện trên tấm thân tròn lẳn, những đường cong gợi cảm của người đàn bà đang ở giai đoạn sung mãn nhất. Chàng thi sĩ đa tình yêu cái đẹp - đơn giản là như thế... Bắt gặp cái nhìn giễu cợt, đầy vẻ khiêu khích từ đôi mắt to tròn ẩn dưới bờ mi cong vút, chàng ý tứ lảng cái nhìn sang tủ sách treo đối diện chiếc giường ngủ của mình:
- Nàng là ai? Cớ sao nàng lại biết rằng ta đang buồn ?
- Em là người cũng yêu thơ như chàng. Thơ chàng hay vì nhiều lẽ nhưng trước hết và trên hết chàng dám nói thật những rung động lòng mình ở cõi tâm tư sâu lắng nhất - Người nhất. Một số kẻ khác - cái bọn cơ hội, đạo đức giả ấy lớn tiếng chê bai thơ chàng chỉ biết đi sâu khai thác cái tôi nhỏ bé mà không nói được cái lớn lao, tầm vóc... Có phải ai cũng có đủ tâm và đủ tầm để nói những vấn đề lớn lao đó đâu - mà nói được cái tôi để bao người đọc cảm được cái ta trong đó cũng đáng quý lắm rồi... Mà chàng buồn, em cảm nhận được bởi "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" mà...
Thi sĩ ngạc nhiên, cất giọng nhẹ nhàng bảo nàng rằng:
- Nàng chắc mới ba mươi tuổi. Ta sáu mươi tuổi rồi. Thôi. Ta cứ gọi nhau bằng anh em cho thân mật nhé! Nào! Mời em ra ngoài ban công uống chè, thưởng nguyệt và cùng đàm đạo văn chương.
Chàng giơ bàn tay phải ra - rất sành điệu, lịch lãm mời nàng đi trước. Nhưng nàng ý tứ lùi lại phía sau và cất tiếng cười thật trong trẻo:
- Em cười anh điều gì đấy?
- Không! Không phải em cười anh. Em vui vì trong mắt anh, em trẻ thêm mười bốn tuổi. Thực ra thì... em đã bốn mươi tư tuổi rồi đấy!
Lúc ấy, chàng đang pha trà, lúng túng suýt nữa đánh rơi cái chuyên màu cánh gián... Hai người nhìn nhau thiết tha tình tứ. Rồi họ say mê nói chuyện văn chương đông tây kim cổ, tâm đầu ý hợp. Chàng tò mò muốn biết nàng là ai? Nàng từ đâu đến nhưng lại e ngại nàng sẽ cho mình là người khiếm nhã, chàng khôn khéo gài những câu hỏi xen vào việc bình phẩm thơ ca. Ai dè vớ phải cao thủ. Nàng kỳ lạ thật! Vừa mơ màng lãng mạn, vừa tỉnh táo, thông minh, mẫn tiệp.
* * *
Gà gáy canh ba. Nàng nhìn chàng khắc khoải, đắm đuối:
- Em phải đi rồi. Vĩnh biệt anh! Gặp được anh, em thật hạnh phúc!
Chàng giật mình như rơi từ cõi hư vô xuống, miệng lắp bắp vụng về:
- Chưa... nàng chưa đi được đâu! Ta đã biết nàng là ai và từ đâu đến đây...
Chàng liều lĩnh giang tay định ôm nàng thì đột nhiên bóng hình thướt tha, kiều diễm ấy biến mất đường đột như khi vừa xuất hiện. Chiếc rèm cửa vẫn lay lay phơ phất. Mùi hương thơm thoang thoảng là mùi hương của hoa hay hương của nàng? Thi sĩ chới với đứng dậy, từ từ tiến về phía cửa buồng - nơi treo bức tranh nữ sĩ họ Hồ chàng thường ngưỡng vọng. Chàng lạnh toát sống lưng khi nhận ra người thiếu phụ đêm qua đàm đạo văn thơ cùng chàng chính là nữ sĩ họ Hồ - một người đã từng được người đời ca tụng hết lời về tài năng văn chương thơ phú và cũng không ít người coi văn thơ của nàng là loại dâm thư - sản phẩm của một người đàn bà nổi loạn. Chàng đã có nửa đêm bên nàng trong mối tình thiêng liêng trong sáng, yêu nhau vì đức mến nhau vì tài, không gợn chút nhục dục. Nàng không có vẻ đẹp rực rỡ, hồn nhiên như Trang Trang; nàng cũng không có vẻ đẹp si mê, quyến rũ đa tình của Hoài Thi. Vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp thánh thiện của một tâm hồn thanh cao, biết mình biết người, không ỷ tài cậy sắc mà đỏng đảnh, xem thường người khác; trân trọng con người nhưng không tỏ ra nhún mình quỵ luỵ... Thi sĩ thở dài: "Có lẽ chính vì điều đó ta yêu nàng muốn phát cuồng". Chàng đưa tay mân mê từng đường nét trên bức tranh, ngỡ ngàng khi nhìn thấy từ đôi mắt đen huyền thông minh sắc sảo kia hai giọt lệ to tròn tuôn rơi. Chàng hôn rất lâu vào đôi mắt, hôn đến đôi môi chúm chím như nụ hoa hàm tiếu của nàng. Kỳ lạ chưa, thân hình nàng trong tranh run rẩy... chàng cảm được hơi ấm từ cơ thể người thiếu phụ trong tranh như một người đàn bà bằng xương bằng thịt. Một thoáng rùng mình. Lần đầu tiên trong hơn lục tuần sống trên dương thế, chàng cảm thấy khát khao cuồng nhiệt. Như từ trong vô thức, đôi môi tham lam của chàng vục xuống khoảng thung lũng giữa đôi gò bồng đảo. "ùm!" Bức tranh đổ ập xuống người chàng. Thi sĩ mê man, bất tỉnh...
* * *
Sáng hôm sau... Tiết hai trống giờ học về thơ. Cả lớp buồn vì vắng bóng thầy. Buổi trưa, đám sinh viên mua đường sữa, hoa quả vào thăm thầy thì nhìn thấy thi sĩ nằm ngửa bất động. Bức tranh nữ sĩ họ Hồ, người đàn bà nổi tiếng ra đời trước chàng hơn thế kỷ đổ ụp lên thân thể chàng. Nhấc bức tranh ra, mọi người đều sửng sốt khi nhìn thấy từ đôi mắt người quá cố mở to, long lanh hai giọt nước mắt hạnh phúc muộn mằn... Đôi môi chàng phảng phất nụ cười đắm say, mãn nguyện...

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

BẢN HỦI

Nhân kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Gái Núi kính chúc các thầy,các cô giáo về hưu và đương chức luôn có một sức khỏe dồi dào, lạc quan yêu đời và hạnh phúc nhé!
Gái Núi xin gửi lên trang một truyện ngắn của con gái mình- nhà báo Phùng Hải Yến- sinh năm 1985-phóng viên Tòa soạn Báo Lai Châu, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Các Dân tộc Thiểu số Việt Nam.
BẢN HỦI
Truyện ngắn của Phùng Hải Yến
Khi Xoàn giơ tay lên góc trái của bảng để ghi sĩ số lớp, cô cảm giác hụt hẫng ở ngón cái và ngón trỏ. Đảo mắt nhìn xuống, Xoàn hét lên: cô nhìn thấy những ngón tay búp măng cùn cụt ở đầu móng. Những mẩu thịt ton hon đang run rẩy cố nắm thật chắc viên phấn. Xoàn tức tưởi chạy khỏi lớp, bỏ lại phía sau ánh mắt tròn xoe ngạc nhiên của học sinh. Xoàn lao vào nhà bếp tìm con dao, hai nhát cứa vào ngón trỏ làm máu nhuộm đỏ mắt Xoàn, nhưng cô không thấy đau.
Ánh mắt ráo hoảnh, Xoàn lặng lẽ bước vào căn phòng nhỏ với những đồ đạc giản đơn. Lặng lẽ thay chiếc áo trắng mà trước khi ra trường cô đã mua để mặc trong cuộc hẹn với bạn trai. Mới đó mà đã như lâu lắm. Hiện cô ở cách thành phố gần một ngàn ki lô mét tính cả bằng đường xe và đường đi bộ. Thời còn là một nữ sinh sư phạm, cô đâu biết có những bản nhỏ cheo leo vách núi như nơi cô được cử đến dạy. Xoàn khẽ nằm xuống giường, nước mắt ứ tràn qua má. Cái lưng còng của mẹ; dáng ngồi hút thuốc lào, xóc tổ tôm của cha;
cái quần xộc xệch của thằng em út; dáng con trâu với cái cày liêu xiêu trong nắng chiều đồng quê… ùa vào tâm khảm cô. Lại cả ngày Xoàn chia tay với người yêu khi anh nhận quyết định ở lại thành phố. Sự khác biệt về gia cảnh khiến anh không đủ can đảm níu giữ cô, còn lòng tự trọng, tự ti của một cô gái nhà quê đưa chân cô theo hướng khác. Cứ thế, Xoàn nhớ lại hai mươi ba năm cuộc đời mình. Một cách quả quyết, cô liếc con dao cực sắc vào động mạch tay…
***
- Xoàn, Xoàn, con gái gì mà ngủ trưa cũng ú ớ, dậy đi chứ? Mồ hôi tứa khắp mặt này!
Xoàn ngồi bật dậy, ngơ ngác, rồi vội vã ôm chầm lấy chị Nhung:
- Không, không, chị ơi, em sợ lắm, trong mơ em cũng thấy mình bị lây hủi.
- Giữ mồm giữ miệng chứ. Chuyện cái Hoa xuống bản mua gà đen về bồi bổ cho chồng ốm rồi bị lây hủi làm mày sợ chứ gì? Ai cũng nghĩ như mày khéo cả trường này phải giải tán. Những đứa trẻ không bị hủi cũng thất học vì bản hủi này mất.
Xoàn lặng im, tay vân vê tà áo. Sự sợ hãi trong giấc mơ còn lẩn khuất ở đâu đó, nhưng cô không dám nói gì nữa. Bản hủi ở khá xa trung tâm xã, bước chân đầu tiên của cô tới đây, chị Nhung cảnh báo:
- Trông cũng xinh đấy! Nhưng em ạ, ở đây yêu cũng khó chứ đừng nói đến chuyện lập gia đình
Lúc ấy, Xoàn chẳng hiểu chị nói gì. Hai chị em ở chung trong căn phòng tập thể của trường. Dần dà, trong mắt Xoàn, chị Nhung giống như người chị cả, chị Nhung sắc sảo; chị Nhung yêu thương trẻ nhỏ trót sinh ra trong bản hủi, chị Nhung không chấp nhận số phận bằng cách yêu qua quýt, lấy chồng tạm bợ. Chị Nhung bảo:
- Ở lâu mày khắc hiểu.
Chỉ trong tháng đầu, Xoàn nhanh chóng quen với các anh chị dạy học cùng trường. Xoàn đặc biệt ấn tượng với chị Mai – cô gái dong dỏng có nước da sáng, đôi mắt nâu và khuôn miệng chín mọng ở phòng kế bên. Chị Mai dạy môn mỹ thuật và âm nhạc, “đã từng muốn mình là một diễn viên múa” - chị nhoẻn nụ cười chết người khi nói về mơ ước của mình. Hôm Xoàn sang phòng chị xin dầu gió xoa vào những vết đỏ loét trên chân, nghe Xoàn than thở, chị nhắc:
- Xứ này là xứ độc, bị ruồi vàng đốt phải vài ba năm mới lặn hoặc “đóng dấu” nham nhở sẹo trên chân đấy!
Chị Mai không dọa. Sau tháng đầu tiên dạy học Xoàn đã cất cả những cái áo sơ mi ngắn tay, những chiếc quần lửng gối. Có lúc đang đêm, Xoàn bật dậy, mở cái hòm gỗ, hay tay mân mê những bộ đồ không có cơ hội mặc cho đến khi tiếng càu nhàu của chị Nhung cất lên Xoàn mới lên giường ngủ tiếp. Trong mơ, Xoàn thấy mình mặc váy ngắn, tung tăng giày cao gót dạo phố cùng người yêu…
Sáng sớm, khi tiếng gà chưa tan, Xoàn trở dậy mặc chiếc áo sơ mi tay dài, quần dài đến gót chân xuống bản gọi học sinh đến lớp. Đó cũng là khoảng thời gian thử thách đáng sợ nhất trong ngày của Xoàn. Gọi là bản hủi vì không có gia đình nào không có người hủi. Cũng không biết bản ấy đã hình thành từ bao giờ, tuy không bị ai xa lánh nhưng bản ở cách xã những mấy cánh rừng, mấy con suối; bản chứa nhiều ánh mắt trẻ thơ ngơ ngác không hiểu sao ngón tay, ngón chân của cha mẹ chúng lại rụng như lá cây cơm nguội bên suối. Đến nhà học sinh nào Xoàn cũng được mời đến ngồi cạnh bếp lửa, Xoàn thật khó để quen với những gương mặt thiếu lông mày lông mi, chi chít nốt sần củ trên thịt da của những người trong bản. Khi cùng lũ trẻ tới trường với những tiết học bắt đầu muộn, Xoàn mới khẽ rùng mình.
Kỳ lạ là các cô, cậu bé sinh ra trong gia đình có bố mẹ bị hủi lại rất lành lặn, mắt đứa nào đứa nấy trong veo, ánh nhìn lanh lợi; bàn tay bàn chân đủ ngón đủ móng tuy sần chai vì lao động sớm. Khi vuốt ve tay chúng, Xoàn thường nhớ đến cu Tí nhà mình. Những đứa trẻ nói giọng ngọng lơ ngọng líu với Xoàn. Ở gần chúng, Xoàn cũng bập bẹ học tiếng của dân tộc Mảng, hỏi cách dệt váy thổ cẩm, ăn thử món rau sắn và rêu mà chúng hớn hở mang đến làm quà cho cô giáo.
Điểm duy nhất Xoàn không thích ở chị Mai là khi có những anh chàng cán bộ người Kinh ở xã hoặc ở huyện xuống. Lúc ấy, ánh mắt chị sáng long lanh, hai má hồng rực, chị thường rủ Xoàn đi cùng sang nhà trưởng bản. Hai tay chị liên tục vuốt tóc, mắt liếc dọc liếc ngang. Xoàn đem chuyện về kể với chị Nhung, chị Nhung cười xòa:
- “Gái phải hơi giai… ” thôi kệ nó, con gái phơi phới mà rơi vào vùng này cũng chẳng biết làm sao. Cái Mai nó không yêu bộ đội biên phòng để cố mà bắt cưới như cái Huyền, không chịu lấy thằng trai Mảng khỏe như con ngựa đực, thì nó… cứ lả lơi thế thôi!
Trong giọng nói giả bộ lơ lớ của chị, Xoàn trở lại cảm giác ăn quả me tròn trên rừng, chát chua và có phần cay đắng. Những đêm chị Mai đưa khách về, Xoàn cố ngủ mà không ngủ nổi, bên kia giường, chị Nhung cũng trở trăn, lật mình, thở dài. Những người ấy cứ đến lại cứ đi, Xoàn thấy lạ vì chị Mai không cần có cảm tình với họ, cũng chẳng biết họ có luyến lưu nhiều với mình hay không. Dần dà, Xoàn cũng không hay nói chuyện với chị nữa, không chỉ mình Xoàn, dường như ở trường này ai cũng ác cảm ngấm ngầm không nói ra được, không đồng tình với cách sống của chị Mai.
Đó là một buổi chiều đông giá, chị Huyền tóc tai xoã sượi lảo đảo chạy lên con dốc có ngôi trường nhỏ, trên tay bế đứa con gái chưa tròn bốn tuổi, chị gào thét điên cuồng. Cả khu tập thể nhỏ bé chợt nhốn nháo. Hỏi ra mới biết anh Thành chồng chị sau chuyến tuần tra biên giới về bỗng thấy nước mũi chảy nhiều, giọng nói khản đặc. Ban đầu chị tưởng anh bị xoang nên mua thuốc cho anh uống, sau rồi thấy tay chân anh dần co quắp, đoán đó là dấu hiệu của bệnh hủi nên chị sợ hãi chạy bổ ra khỏi nhà, mang theo đứa con chị yêu hơn chính mình. Chị chỉ mong đưa nó ra khỏi bản càng nhanh càng tốt. Chị không thể tưởng tượng người chồng mới hôm qua đầu ấp tay kề với mình sẽ dần bị trụi mi trụi tóc, rụng tay rụng chân. “Bốp” – cái tát của chị Nhung bất ngờ quá nên không ai kịp ngăn lại:
- Mày nghĩ thế nào mà định mang con đi, vợ chồng gắn với nhau không chỉ vì tình mà còn vì nghĩa đấy! Hồi mới lên người ta bảo mày bị ma nhập vì khắp người nổi da rắn. Thằng Lanh là học sinh lớn nhất của cái trường này, nó thấy cô giáo khổ quá nên lần mò lên núi đá kiếm lá thuốc giã đắp cho đến khi đỏ thịt đỏ da thì mày quay sang có bầu để lừa anh chàng bộ đội biên phòng cưới. Nay lại bạc bẽo vậy mà được sao? Nói cho mày biết, bệnh phong không dễ lây vậy đâu, những đứa trẻ học ở đây có mấy đứa bị lây hả? Hôm nay là cuối tuần nên học sinh về hết, chứ hình ảnh một cô giáo thế này thì mất mặt quá!
Chị Huyền chết sững, Xoàn cũng chết sững. Trong lòng Xoàn dậy sóng, sợ hãi cúi mặt trước tuổi bốn mươi của chị Nhung. Khi ấy, Xoàn tự rủa mình hèn nhát khi bất đồ nghĩ đến việc bỏ trốn khỏi nơi tai họa luôn rình rập này.
Anh Vàng đến bản khi Xoàn vẫn còn hoang mang bởi chuyện của chị Huyền dù chị đã mang con trở về nhà, chăm sóc chồng tận tình trong đợt nghỉ phép, nghe tin sau đó anh khoác ba lô lên đồn biên phòng và ở miết trên ấy. Chị Huyền lên lớp giảng toán cho học sinh với đôi mắt rười rượi ngẫm suy, thằng Lanh thi thoảng len lén nhìn và thấy mắt cô Huyền đỏ hoe, rần rật nước mắt.
Xoàn quen anh Vàng ở ngoài suối, khi anh hỏi đường đến trường. Mắt một mí, mũi khoằm và môi mỏng – khuôn mặt tròn vo của anh chẳng ăn nhập gì với đường nét trên đó. Qua câu chuyện dọc đường về, Xoàn biết anh là cán bộ Phòng Lao động Thương binh Xã hội của huyện. Ngoài giọng nói ngọng nghịu gây mất cảm tình với Xoàn ngay từ đầu, khi trò chuyện, Xoàn còn không dám nhìn thẳng vào mặt anh vì sợ trí tưởng tượng của cô giáo dạy văn sẽ khiến cô phá lên cười vô ý tứ. Chị Mai xoay xoay cái gương tròn trên tay:
- Ba mươi hai tuổi, dân tộc Hmông thì đã làm sao, người ta làm ở huyện đấy!
Sau hôm đầu làm quen, Vàng mời Xoàn đi chơi. Ra bờ suối, đang hỏi chuyện gia đình, anh bảo:
- Chờ anh một lát.
Không chờ Xoàn trả lời, anh phóng vào lùm cây gần đó, quay lưng lại phía Xoàn “giải quyết”. Cái lưng của anh to và thô đập vào mắt Xoàn, đêm miền núi vắng lặng nên từ tiếng kéo phéc mô tuya đến tiếng khạc đờm trong cổ họng đều đập vào tai Xoàn. Choáng váng vì hành động phản cảm ấy nhưng Xoàn vẫn cố giữ phép lịch sự để không nhăn mặt bỏ về. Hôm sau, Xoàn cố ý tránh mặt anh ta, soạn giáo án và đi ngủ thật sớm.
Nửa đêm, tiếng rú thất kinh của người đàn ông vang từ phòng bên cạnh làm Xoàn tỉnh giấc, chị Nhung và Xoàn chạy bổ sang phòng chị Mai. Chị Mai ngước cái nhìn bị thương vào khoảng trống trước mặt, hai bàn chân buông thõng, những ngón chân ngun ngủn đã cụt hết móng, anh Vàng vơ vội cái chăn đắp lên tấm thân trần như nhộng, ấp úng:
- Thật là kinh khủng, cô ta…
Xoàn lặng đi khi thấy ánh mắt tê dại của chị Mai, ánh mắt ấy mãi còn ám ảnh Xoàn. Ánh mắt không thấy lại được vì ngay hôm sau chị đã biến mất, trên bàn lưu lại một lá thư:
“Mọi người mãi mãi không hiểu được sự kinh khiếp của em trong những ngày đầu mang căn bệnh này. Những giấc mơ què cụt khiến em thèm cảm giác được làm mẹ, có một đứa con dù với bất kỳ ai để khi chết đi rồi vẫn biết có một phần của mình còn tồn tại trên đời. Em tin là con em sẽ khỏe mạnh bình thường như những đứa trẻ vẫn ngày ngày đến lớp chúng ta. Em sẽ dạy nó học vẽ học nhạc, ngón chân nó sẽ có đầy đủ móng, lông mi rất cong, lông mày rất rậm, ngón tay nó búp măng và nó có thể múa…”
Những dòng thư của chị còn dài và ứa nước mắt. Khoảng trời trước mặt Xoàn sụp vỡ ở tuổi hai tư trưởng thành.

***
- Qua khúc cua tay áo này là bản ấy sẽ xa tít trong quá khứ, em đừng có khóc đến sưng cả mắt như thế chứ?
Xoàn nhìn Vàng, ánh mắt của anh ta kéo dài vệt chỉ, tia mắt rắn lạnh lẽo. Hình ảnh chị Mai nhàu nát chết bên nắm lá ngón không khiến anh ta nghĩ anh ta chính là một phần nguyên nhân ư? Chắc trước khi chết chị đã đau đớn đứt gan đứt ruột, đứt cả nghĩ suy, đứt niềm hy vọng? Xoàn xót đau nhìn chiếc xe lăn dần qua khúc cua.
- Dừng lại, tôi xuống.
Người lái xe gằn giọng:
- Vàng, cậu lại làm chuyện gì thế này? Xe của cơ quan cần về đúng giờ để còn xuống tỉnh dự hội nghị.
Tuy nói thế nhưng chiếc xe cũng dần khựng lại,. Xoàn kéo nắm chốt, nhảy xuống, cô xách túi hành lý chạy ngược về phía con đường bụi mù, đằng sau là tiếng của Vàng:
- Cô điên rồi, cô sẽ hối hận, đời cô sẽ chìm trong cái bản hủi ấy.
Xoàn không nghe thấy bất kỳ lời nào của gã đàn ông ném theo, khoảng trời trước cô là những ánh mắt học trò lung linh, chấp chới. Những ánh mắt như cánh bướm, nó sặc sỡ đủ màu, nó sẽ bay xa và sẽ bay cao…

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

“THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ” HAY LỜI TẠ TỘI MỘT TÌNH YÊU?


Đến với bài thơ hay:
THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ

Tôi nợ em
một bài thơ
không bao giờ viết nổi
Tôi nợ em
mùa loa kèn
Khi tháng tư đi rất vội
Tôi nợ em
Bởi lời hứa đầu môi
Khi yêu thương
em đã trót trao tôi
Em - thiên thần
mơ hạnh phúc lên ngôi
Tôi ác quỷ trộn đam mê vào tối
Em - người đàn bà
Tin cả lời nói dối
Nên từng đêm
Nước mắt đắng tràn môi
Bóng em đen
trên tường trắng mầu vôi
Giấc ngủ quay lưng nỗi đau trinh tiết
Em - người đàn bà
đêm đêm đào huyệt
Liệm ước mơ
trong áo váy thiên thần

( Trần Sương Mai)
Bài bình của Bùi Thị Sơn:
“THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ” HAY LỜI TẠ TỘI MỘT TÌNH YÊU?
Tình yêu nam nữ là một trong những tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ nhất mà tạo hóa đã ban tặng loài người. Ở mỗi nơi, mỗi lúc, các cung bậc tình yêu được thể hiện dưới những hình thức khác nhau nhưng điểm chung nhất từ cổ chí kim, từ đông sang tây: Đó là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn đồng điệu không phân biệt tuổi tác, địa vị sang hèn trong xã hội. Đó là sự rung động của con tim ngập tràn thương mến, khao khát cho và nhận. Tình yêu chân chính không có chỗ cho sự giả dối, cơ hội, lừa lọc lên ngôi.
Bài thơ “ Thiên thần và ác quỷ” của Trần Sương Mai thì khác. Nhân vật trữ tình xưng tôi tự nhận mình là “ác quỷ” sám hối trước một người con gái ngây thơ, thánh thiện như “thiên thần” đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho mình.
Mở đầu bài thơ là điệp ngữ “tôi nợ em” dược nhắc đi nhắc lại tới ba lần:
“Tôi nợ em
một bài thơ
không bao giờ viết nổi
Tôi nợ em
mùa loa kèn
Khi tháng tư đi rất vội
Tôi nợ em
Bởi lời hứa đầu môi”
Thơ- giống như tình yêu- là kết quả sự rung động mãnh liệt của con tim nhưng người đàn ông ấy “ không bao giờ viết nổi” cho em “một bài thơ”. “Em” không hiện ra bằng hình hài vóc dáng nhưng đã lấp ló một vẻ đẹp tâm hồn. Trong khi xã hội nhan nhản những cô gái sống nhớp nhơ thực dụng “giá áo, túi cơm”, coi thơ ca là phù phiếm vô vị thì em chỉ ước ao được người mình yêu tặng một bài thơ minh chứng cho tình yêu anh ấy dành cho mình mà thôi! Em đâu có mơ tiền tài danh vọng ! Tội nghiệp cho em! Tình cảm hời hợt người ta dành cho em đâu đủ thăng hoa để “viết nổi”một bài thơ- dẫu chỉ là một bài thơ xoàng xĩnh, nhạt nhẽo !
Người đàn ông ấy nợ em cả “ mùa loa kèn khi tháng tư đi rất vội” bởi “lời hứa đầu môi”. Có lẽ đó là thời điểm hai cá thể- Thiên thần và Ác quỷ- đã hòa nhập thể xác làm một?
“Khi yêu thương
em đã trót trao tôi
Em - thiên thần
mơ hạnh phúc lên ngôi
Tôi- ác quỷ
trộn đam mê vào tối”
Hạnh phúc biết bao khi tình yêu thăng hoa lên tột đỉnh, hai người tự nguyện dâng hiến nhau hết thảy! Cũng bất hạnh biết bao khi tình yêu thánh thiện chỉ có từ một phía ! “ Em” - bởi cảm xúc yêu thương ngập tràn không kìm nén nổi nên “ trót trao" cho người ta cái quý giá nhất của đời người con gái. Dẫu đã trở thành “đàn bà” em vẫn là “thiên thần” bởi tình yêu của em vô tư hồn nhiên , thánh thiện lắm! Còn “tôi” thì sao? “Tôi” chỉ là tên “ác quỷ” đến với em bằng động cơ thấp hèn nhằm thỏa mãn thú vui nhục dục “… trộn đam mê vào tối”.
Viết về chuyện tế nhị, nhạy cảm bằng những câu thơ cô đọng, hàm ngôn, giàu hình tượng như thế, tôi cảm phục chị Trần Sương Mai đã biết tiết chế cảm xúc xót xa, phẫn nộ…làm chủ ngòi bút của mình để không sa vào kể lể, dung tục hóa một bi kịch tình yêu.
Cả tin, dại khờ, nông nổi luôn là điểm yếu của phụ nữ .Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến đã dành hẳn một tập thơ có tên là “Dại yêu” tập hợp chân dung những người đàn bà “dại yêu”: xưa là Xúy Vân, Mỵ Châu, Thị Mầu, Thúy Kiều, Hồ Xuân Hương…nay là người đàn bà “lỡ chồng”với đứa con mang họ mẹ, một nữ sĩ “càng say càng gặp tình vờ”, một người em gái với đời riêng lấy “cái thất tình làm vui”…
Nhưng chính sự “dại yêu”ấy mới là thuộc tính của tình yêu đích thực. Nếu so đo tính toán thiệt hơn, liệu đó có còn là tình yêu không? Bởi em “tin cả lời nói dối”của một kẻ lợi dụng danh nghĩa tình yêu để thỏa mãn “đam mê” trong bóng tối nên sau phút yêu thương “trót trao", em phải gánh chịu hậu quả “ từng đêm nước mắt trắng tràn môi”. Theo thiển ý của tôi: chỉ cần viết “nước mắt tràn môi” là đủ cho độc giả hình dung nỗi đớn đau, xót xa, dằn vặt, ân hận của người đàn bà ấy rồi. Nếu thay cụm từ “nước mắt tràn môi” bằng cụm từ “nước mắt mặn chát môi” thì giá trị biểu cảm của câu thơ có lẽ nặng hơn chăng? Chỉ vì một phút nông nổi, yếu lòng “ khôn ba năm, dại một giờ” mà nàng phải âm thầm bao đêm nuốt nghẹn dòng nước mắt mặn chát ngược vào tim, đâu dám hé răng tâm sự cùng ai…
Hình ảnh “ bóng em đen trên tường trắng màu vôi” không mới
(Nhà thơ Bế Kiến Quốc từng viết trong bài thơ “ Hoa huệ”:
“Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
Sao bóng hoa trên tường lại đen?”) nhưng câu thơ tiếp theo” giấc ngủ quay lưng/nỗi đau trinh tiết” lại là cách nói rất riêng chỉ có ở Trần Sương Mai. “Em” không phải loại con gái hư hỏng săn tìm thú vui nhục dục trong chốc lát. Chỉ vì quá yêu thương, quá tin tưởng vào người mình yêu mà em không còn giữ được phẩm giá truyền thống của người con gái Á Đông cho đến ngày vu quy. Và cái giá phải trả cho sự “dại yêu” của em là những đêm thức trắng, héo tàn nhan sắc…
Người con gái nào khi yêu không mơ có ngày được chưng diện “váy áo thiên thần” trắng trong tinh khiết khi lên xe hoa về nhà chồng? Nhưng vì trót dại yêu nên “em” đã nhận kết cục bi thảm như thế này đây:
“ Em - người đàn bà
đêm đêm đào huyệt
Liệm ước mơ
trong áo váy thiên thần”
Hai câu thơ bát cú bị bẻ gãy nhịp, hình tượng thơ độc đáo, táo bạo “ đào huyệt liệm ước mơ” khiến độc giả không khỏi rùng mình rồi lặng đi bởi xót thương cô gái daị yêu sớm trở thành người đàn bà bị bỏ rơi trong cô đơn giằng xé…Tôi hình dung ra hình ảnh cô gái ấy đêm đêm lăn lộn trong đống “ váy áo thiên thần” để khóc cho “ ước mơ” đẹp đẽ của mình giờ đã tan thành mây khói…Yêu đắm say đến độ đã sắm sửa đầy đủ “váy áo thiên thần” chuẩn bị cho ngày cưới mà vẫn bị ruồng rẫy, bỏ rơi khi đã trót” trộn đam mê vào tối” cùng một tên “ác quỷ” mới biết mình bị dối lừa, nàng đã rơi từ đỉnh cao ước mơ xuống tận cùng tuyệt vọng…
“ Thiên thần và ác quỷ” được viết theo thể thơ tự do và rất gợi hình, gợi nhạc nên dễ đi vào lòng người đọc. Cái “ tôi” trữ tình là sự sám hối muộn mằn của một người đàn ông tự nguyền rủa mình là “ác quỷ”- người đàn ông đã từng “nói dối” để thỏa mãn thú tính nhất thời, rồi sẵn sàng bỏ rơi người con gái yêu mình sau khi đã biến nàng thành đàn bà. Thật là ghê tởm !Là cô gái yếu đuối, nhân hậu, vị tha, dẫu bị lừa dối, nàng không tìm cách trả thù gã Sở Khanh mà chỉ âm thầm vật vã trong đớn đau khắc khoải… So với nỗi đau tinh thần không gì bù đắp nổi của cô gái dại yêu kia thì từ dùng “ ác quỷ” còn quá nhẹ do tội lỗi “ giết người không dao” của gã đàn ông đê tiện kia. “Ác quỷ” mang bộ mặt xấu xa gớm ghiếc trong tưởng tượng của con người. Còn gã Sở Khanh kia lại là con “ác quỷ” đội lốt người, thậm chí còn có thể mang bộ mặt đẹp đẽ , thánh thiện nữa…
Nhưng nếu đọc đi đọc lại toàn bài thơ, sau nỗi ân hận xót xa của anh ta, tôi không nỡ coi anh ta là ác quỷ mà chỉ đánh giá anh ta là một kẻ dối trá, ích kỷ, phóng đãng thôi. Điệp ngữ “ tôi nợ em” được nhắc đi nhắc lại đến ba lần ở đầu bài thơ không chỉ là nỗi day dứt, sám hối muộn màng của anh ta mà còn thể hiện sự hiểu biết của anh ta về “em” rất sâu sắc. Rõ ràng, trong anh ta còn le lói chút nhân tính chứ chưa đến mức để trái tim hóa đá, đóng băng trước một người con gái đã yêu mình đến độ tiều tụy cả thể xác lẫn tâm hồn…Song dẫu vì lý do gì anh ta không cưới cô gái thì mọi lời xin lỗi đều không thể chấp nhận được.
Nhập vai, hóa thân vào nhân vật người đàn ông dối trá để hưởng đam mê trong bóng tối, không một lời khuyên răn, giáo huấn, bằng hình tượng thơ độc đáo sáng tạo, Trần Sương Mai đã gửi đến các bạn gái trẻ một thông điệp cảnh tỉnh: Dẫu có hội nhập văn hóa Đông Tây, dẫu có quan niệm thoáng về tình yêu đến mấy, người con gái khi yêu vẫn rất cần có sự tỉnh táo, sáng suốt của lí trí, nhận rõ chân tướng của những kẻ “ nói dối” cơ hội , đừng để “ trái tim lầm chỗ để lên đầu”(Tố Hữu) rồi lặp lại bi kịch đớn đau của “ người đàn bà/ đêm đêm đào huyệt/liệm ước mơ trong váy áo thiên thần”.
BTS