Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

TẢN MẠN TRONG BỆNH VIỆN

Tạp văn
1-Ù…ù….ù…ù…
Ong …ong…u…u…
Âm thanh bùng nhùng tới tấp chen lấn nhau lấp đầy có ngọn hai bên màng nhĩ mang hình dạng kỳ dị như tai của Lão Trư Bát Giới. Tô đang phiêu diêu ở bãi biển nào vậy? Đồ Sơn dịu dàng hay Sầm Sơn mạnh mẽ? Vũng Tàu cuồn cuộn hay Nha Trang sâu lắng? Ơi biển muôn đời tôi si mê! Biển hào phóng bao dung với muôn vàn ức triệu cánh tay sóng mát rượi vuốt ve âu yếm tôi những trưa hè hiếm hoi tôi kiếm cớ xa rừng để trốn ra với biển…
Tôi vẫn yêu rừng lắm - một tình yêu máu thịt, hữu cơ, tự nhiên như không khí cần cho tôi thở, nước sạch cần cho tôi uống hàng ngày. Nhưng tôi khát biển! Biển xa xôi vời vợi luôn hiện về trong từng giấc mơ tôi một thiên đường đầy mộng mị ám ảnh dứt day… Có lẽ cánh tay sóng cuồn cuộn của biển không ôm chỉ riêng tôi? Như một gã thanh niên choai choai “ngựa non háu đá”, cái gì xa vời ngoài tầm tay với cũng khiến tôi háo hức khát khao, chinh phục !
Rồi những tiếng rì rầm rất lạ…Tôi lạc vào phiên chợ Cõi Âm sao? Mọi tiếng động đều nghe như mơ hồ, lạ lẫm, như kìm nén, cố giấu, như bảng lảng, không thực…

2.
- Ôi cái cổ của con sao bỏng rát thế này?
- Con vừa cắt amidan đấy! Gắng lên!
Tiếng mẹ dịu dàng như trôi về từ một bến bờ xa lơ xa lắc.
- Ôi, cô bé dũng cảm. Cắt amidan mà không hề kêu rên một tiếng - Giọng một bác sĩ trẻ động viên khuyến khích - Con gái ông Phó giám đốc Bệnh viện Khu có khác!
Cô bé con mười hai tuổi cố nghiến răng chịu đau mặc nước mắt tuôn tràn đôi gò má xanh xao nhợt nhạt. Bàn tay mẹ dịu dàng lau khô dòng nước mắt nóng hổi của cô. Mẹ ân cần bón từng thìa sữa cho cô suốt tuần lễ  bởi vết cắt bị tổn thương, đau rát. Sau đợt ấy, giọng nói cô trầm hẳn xuống, ồm ồm, đứt quãng; giọng hát cũng không còn trong trẻo, ngân vang như trước… “Chim Sơn Ca” suốt bốn năm cấp 1 và một năm cấp 2 đành “mất chức” quản ca. Bù lại, cái chức cán sự văn cô giữ dài dài  không chỉ suốt những năm học phổ thông cấp hai…
Bố bảo:
- Con gái bố thật tuyệt! Lớn lên, con sẽ là một bác sĩ giỏi giang.
- Ứ ừ, con sợ tiêm lắm! Con chẳng làm bác sĩ đâu, con chỉ làm văn sĩ thôi!
Bố cười hiền từ:
- Con gái bố mơ mộng quá! Được rồi, lớn lên con sẽ làm văn sĩ.

3.
Bố đột tử vì bị xuất huyết não khi thức trắng đêm viết Diễn văn cho Khu ủy chuẩn bị kỷ niệm hai mươi năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (lúc ấy bố đã chuyển sang công tác ở Ban Văn giáo Khu Tây Bắc). Một mình mẹ cô - người đàn bà góa bốn mươi tư tuổi gồng mình nuôi sáu đứa con lít nhít sàn sàn như trứng gà trứng vịt đang học hành dang dở, riêng cậu út mới vừa tròn hai tuổi. Cô không trở thành bác sĩ, cũng không trở thành văn sĩ mà trở thành cô giáo dạy văn. Con đường học hành của cô dang dở, đứt đoạn chứ không “xuôi chèo mát mái” như bạn bè cùng trang lứa. Cô vào học hệ 7+3 lớp Văn- Sử của trường trung cấp Sư phạm Khu Tây Bắc, rồi ra trường đỡ gánh nặng cho mẹ. Rồi lấy một anh bạn đồng nghiệp mồ côi nghèo khổ. Rồi sinh con trai, con gái. Rồi lại cắn răng chịu đựng thiếu thốn gian khổ, thay phiên nhau trông con để tiếp tục học lên. Anh đã học qua hai lớp Quản lý giáo dục và lớp Cao cấp chính trị. Còn cô cũng lần lượt học hết lớp Cao đẳng Văn Sư phạm Tây Bắc đến lớp Đại học Văn Sư phạm Hà Nội. Bây giờ người ta nói “Dốt đi chuyên tu, ngu đi tại chức” cũng chẳng sai nhưng ngày ấy, cô tự hào đã học bằng thực tâm, thực tài của mình …
Yêu văn chương không làm cho cô trở thành văn sĩ nhưng khiến đời sống tâm hồn cô thêm phong phú. Cô sống bao dung nhân hậu , hòa đồng với mọi tầng lớp người trong xã hội. Yêu văn chương cũng bao phen làm cô long đong lận đận bởi ngộ nhận, vỡ mộng…

4.
Cục gì nhờn nhờn, trơn tuồn tuột cứ trồi lên cổ họng thế này? Muốn khạc quá mà thấy tanh tanh mằn mặn. Cô thòi tay móc họng và lôi ra từng cục bầy nhầy có màu hồng nhạt như hạt lựu ngày bé thường được mẹ mua cho ăn mỗi lần ngóng mẹ đi chợ về. Buồn nôn quá!
Lại móc cổ họng lôi ra từng cục to hơn, sền sệt như những miếng tiết tím bầm, lại trơn trơn nhùn nhũn như cục thạch cô thường mua cho bé Bi ăn, và bé thường cười khanh khách khi nún chán chê lại đùn ra bắt mẹ nuốt hộ.
Cô cố hé đôi mắt nặng chình chịch, hum húp như bị ong đốt để  nhìn nhận  mọi cảnh vật hiện hữu quanh mình. Cái đầu u mê của cô dần dần tỉnh laị. Cô lờ mờ nhớ ra: Sáng nay, Hoài Thy  tỉnh giấc, reo to:
- Ôi, bố ơi ! Mẹ mở mắt rồi này ! Mẹ tỉnh lại rồi này !
“Choang!”. Anh đang rót nước sôi vào phích, mừng quá run tay làm chiếc phích lăn lông lốc, vỡ tan.
- Bố! Bố có làm sao không? May rồi, bố không sao! Trưa về con mua cái phích mới. Bố mừng cho mẹ quá đấy mà!
Qua lời trao đổi rì rầm của hai bố con, cô mới hay mình bị ngộ độc thuốc, xuất huyết niêm mạc và thực quản, đường tiêu hóa phải vào khoa nội Bệnh viện tỉnh cấp cứu, truyền giải độc sáu ngày sáu đêm rồi. Cái âm thanh ầm ì cô nghe  như tiếng sóng biển ấy, tiếng oan hồn khóc ở Cõi Âm ấy, cái cổ bỏng rát như bị cắt amidan ấy, những cục da thịt nhùn nhũn, tanh lòm, mằn mặn ấy… là hậu quả của  trận ngộ độc thuốc chết tiệt ấy. Sáu ngày qua môi cô lở loét, lưỡi rộp lên trắng như bôi vôi nên không ăn uống gì nổi, phải truyền đạm sữa. Căn phòng cô ở trên tầng bốn khang trang, tiện nghi như khách sạn ba sao là căn phòng tự nguyện duy nhất của khoa nội mà mọi người đã ưu ái giành riêng cho cô. Tất nhiên, anh phải trả tiền phòng mỗi ngày. Bệnh nhân là cán bộ hay nhân dân điều trị nội trú đều được tĩnh dưỡng trong những gian phòng gồm bốn giường bệnh sạch sẽ,  có toa lét , trang thiết bị nội thất hoàn toàn do Hàn Quốc tài trợ và được các y bác sĩ, các điều dưỡng viên, các y sinh thực tập… quan tâm, chăm sóc rất chu đáo. Riêng phòng cô ở được trang bị thêm điều hòa, ti vi, đầu thu, bàn ghế, ấm điện, ấm chén để pha trà, tiếp khách… Sáu ngày qua, bố con anh lo lắng cho cô nên thay nhau túc trực trông cho cô truyền đạm truyền thuốc mỗi ngày bắt đầu từ lúc tám giờ sáng và kết thúc ba giờ đêm hôm sau, không dám bật ti vi nữa.

5.
Hôm nay là thứ bảy, bệnh nhân là cán bộ  viên chức đã về vãn. Chỉ còn nhiều bệnh nhân là bà con các dân tộc ở vùng sâu vùng xa thôi. Hai bố con đóng kín cửa phòng, bật điều hòa và mở ti vi nho nhỏ xem chương trình thời sự. Đêm nay trên VTV1 phát chương trình truyền hình trực tiếp mang tên “Vì Ngày mai Tươi sáng”. Đó là sáng kiến của các bác sĩ Khoa ung bướu, bệnh viện K Hà Nội để quyên góp tiền ủng hộ trẻ em ung bươú vui tết Trung Thu. Hai bố con đang xem, chợt  Hoài Thy nói nhỏ:
- Bố xem kìa ! Người ta đứng đầy ngoài cửa sổ phòng mình kìa!
Theo tay chỉ của Hoài Thy, tôi cố nhướng mắt nhìn qua cửa kính thì thấy những đôi mắt tròn xoe thô lố của các em nhỏ đi chăm cha mẹ ốm, những đôi mắt mỏi mệt, nhăn nheo của các bệnh nhân già dán chặt qua cửa. Anh khẽ khàng nhắc con gái:
- Con xếp ghế ra cho bố…
Rồi nhanh nhẹn mở  cửa, vồn  vã:
- Mời các bác, các anh và các cháu ngồi xem!
Hai anh trung niên chắc là cán bộ, ba ông bà già người Mông, người Dao và  ba đứa trẻ người Thái  ý tứ bước vào, ngồi ghế im lặng theo dõi màn hình.
Hoài Thy bảo:
- Bố cho họ vào phòng xem ti vi thế này, con sợ bác  sĩ trực đêm không đồng ý.
- Không sao đâu con! Bà con vùng sâu vùng xa, họ thèm xem ti vi lắm con ạ.
Rồi rót nước lavi trao tay từng người.
Tôi hé mắt nhìn ba em nhỏ, áo quần vương nhiều mảnh vá, thấy cay cay nơi sống mũi…
Màn hình xuất hiện hình ảnh Hoàng Diệu Thuần - cô gái Nghệ An bảy năm chống chọi với bệnh ung thư máu cùng tập tự truyện “Như hoa hướng dương” gây xôn xao dư luận về nghị lực phi thường của cô sinh viên bé nhỏ. Giao lưu cùng em bên Thi viện.net, tôi được biết em còn có hai mươi trang thơ gồm 197 bài thơ do em sáng tác và các blogger thân thương gửi tặng. Chợt hổ thẹn trước cô bé chỉ đáng tuổi con mình…
Đến mục các doanh nhân và các tổ chức, cá nhân quyên góp ủng hộ bệnh nhân ung thư, tôi thấy lòng dịu lại trước những tấm lòng từ thiện của bà con mình. Tiếng chồng tôi:
- Con gái gửi tin nhắn về 1405 - NMTS…cho bố nhé !
- Xong rồi! Mà mỗi tin nhắn chỉ tặng được quỹ “Ngày mai tươi sáng” có  mười ngàn thôi bố à.
- Không sao ! Mai lên cơ quan, bố lại nhờ anh Tuấn gửi tiếp…
Ôi, cái ông chồng già cà là tẩm của tôi! Được con  trai trang bị cho cái điện thoại iphone5 hiện đại thế mà chỉ biết gọi và nghe máy. Stốp! Cứ mỗi lần có ai gửi tin nhắn tới là phải đem về nhờ vợ đọc hộ. Có lần tôi đọc được tin nhắn của một bà tuổi sồn sồn chán chồng ngọng líu ngọng lo: “Em ngưỡn mộ eng lắn đó” mà ôm bụng cười tưởng đứt ruột.
Con gái tôi cáu:
- Mẹ đừng chê bai bố! Người như bố bây giờ “hiếm có khó tìm” lắm đấy! Con đi dự họp, thấy ối ông đứng đầu ngành của tỉnh tuổi gần như bố, nét mặt nghiêm trang, tư thế đĩnh đạc đàng hoàng mà ngấm ngầm thò tay xuống ngăn bàn nhoay nháy viết tin nhắn hẹn hò bồ bịch đó nha!
- Này con, không phải con tưởng tượng ra đấy chứ? Cẩn thận không mắc bệnh nghề nghiệp đấy nhé!
Nói là nói vậy thôi, ông chồng già cà là tẩm của tôi - dẫu không phải rơi rớt sót lại của loài khủng long tiệt chủng nhưng cũng là loại “động vật cấp cao quý hiếm”. Tôi hay bôi bác chồng nhưng “khẩu xà tâm phật”.
Chuyện nhỏ… như con thỏ ấy mà!


B.T.S

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

SAU TRẬN ỐM...

Mình đã về rồi, hàng xóm ơi!
Nhớ thương quay quắt tiếng nói cười
Vần thơ còn thắm tình bè bạn
Làm sao lìa bỏ nổi cõi người?

Mình đã về đây, hàng xóm ơi!
Dạo thăm vườn mà nước mắt rơi…
Dấu chân bạn bè vương thơm cỏ
Vần thơ treo bên cửa nắng ngời…

Mình về thật rồi, hàng xóm ơi!
Khát mong thi hữu lại ghé chơi
Rượu táo mèo, măng rừng cạn chén
Nhạc- thơ hòa quyện vút lưng trời…

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

"NGƯỜI NHÀ QUÊ HỌ PHẠM"- SÂU LẮNG MỘT HỒN THƠ !

GIỚI THIỆU SÁCH
Người ta say mê một bài thơ, trước hết vì họ cảm thấy đó là bài thơ hay, đồng điệu với tâm hồn và gu thẩm mĩ của họ. Với tôi: thơ hay là thơ có nội dung sâu sắc, thấm đẫm chữ tình và được viết ra bằng hình thức biểu cảm phù hợp, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Tôi yêu thơ của “Người nhà quê họ Phạm” bởi thơ anh chan chứa tình yêu: yêu gia đình bè bạn, yêu quê hương đất nước và trăn trở nỗi đau đời, thương đời da diết. Thơ anh mộc mạc, giản dị mà sâu lắng !
Thật cảm động khi tuổi đà xế bóng anh mới in thơ và bài thơ anh cho in đầu tiên là bài thơ tặng mẹ:
“Con hăm hở vội về thăm mẹ
Tay mẹ gầy khô trong tay con
Giọng mẹ run run, giọt lệ tròn
“Nước mắt chảy xuôi” - lời giản dị
Khi hiểu - tóc xanh con chẳng còn”.
(Gửi mẹ của con)
Anh xót xa, ngậm ngùi khi mẹ đã đi xa:
“ Lâm râm con khấn một mình
Con mời mẹ bát chè xanh trưa hè”.
Người mẹ tảo tần, vất vả lo toan việc nhà cho chồng lo việc nước:
“Chiến tranh mấy cuộc kéo dài
Gồng vai thay bố nơi ngoài chiến khu”.
Người mẹ một đời “vo để cho tròn” quên mình chiu chắt cho con, cho cháu:
“Tay kim chỉ, miệng hát ru
Khêu đèn lụi bấc, trăng lu tảo tần
Dạy con đèn sách lập thân
Bát chè xanh cũng chia dần làm ba”.
Người đọc rưng rưng nhớ tới một thời khói lửa, một thời bao cấp gian nan vất vả thiếu thốn trăm bề đến bát chè xanh “cũng chia dần làm ba”. Bây giờ, tưởng nhớ đến cha mẹ khuất núi, người ta thường cúng những món sơn hào hải vị như để bù đắp thiệt thòi khi sống trên dương thế
cha mẹ mình không được thụ hưởng. Người nhà quê họ Phạm khác hẳn, anh tưởng nhớ đến mẹ, tri ân mẹ bằng ký ức ân tình đau đáu:
“Bao năm rồi mẹ đã xa
Trà xanh dâng mẹ chút là lòng con”
(Con dâng mẹ bát chè xanh).
Anh luôn nhắc nhủ các con nhớ đến bà nội:
“Có một thời như thế
Sữa phân phối ngặt nghèo
Gạo sổ, thịt tem, nước giếng đèn dầu
Bà nấu cơm, mùn cưa khói lòa đôi mắt…
Người bán gạo,
Bên cửa sổ cao lưng trời
Bà còng lưng,
Xếp hàng không với tới”.
(Ngày ấy)
Anh tự hào về người cha đã hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất “nơi ngoài chiến khu” nhưng lại xót xa, đau đớn khi cha già cô đơn khắc khoải ngóng đợi các con - người đi du học tít tận trời Âu , người xông pha nơi hòn tên mũi đạn :
“Giật mình, đau nỗi ngày xưa
Cha ta tựa cửa mong chờ các con”
(Thời mình)
Rồi đến ngày Cha mãi đi xa…
Một sớm xuân, nghe vẳng khúc Đường trường réo rắt rung trong gió, anh liên tưởng :
“Nhớ Cha lòng con đau thắt
Khúc Đường trường Cha kéo trong đêm”
Anh nhớ đến “làn điệu chèo” và bóng hình người cha “với cây đàn in nền cửa”:
“Biền biệt các con
Cha quạnh quẽ một mình !”
(Khúc Đường trường)
Người con hiếu đễ ấy vì nghĩa cả mà sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với kẻ thù không hề tính toán thiệt hơn được mất nhưng khi cha khuất núi, anh luôn day dứt cảm thấy mình có lỗi:
“ Cho con tạ tội trước vong linh
Dù thế sự, vẫn mong Cha xá tội…
Bao sợi tóc trên đầu- ơn Cha
Và bấy nhiêu tội chúng con”.
(Trước Giao thừa Kỷ Sửu 2009)
Khi cả mẹ và cha đi vào cõi vĩnh hằng, kỷ niệm tuổi thơ được sống trong tình yêu thương của mẹ cha vẫn trăn trở hoài trong những trang thơ anh:
“ Về Hà Nội, con về nơi Cha Mẹ
Cùng với con, mưa bụi cũng theo về
Se thắt heo may tràn mí mắt
Đón lạ quen nhảy nhót hút triền đê”.
( Nước mắt chảy xuôi)
Những bài thơ về cha mẹ được anh viết ra bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và cảm xúc chân thành, không hề sử dụng các biệp pháo tu từ về từ, về câu, về âm thanh, ngữ nghĩa… Cái thật có lối đi riêng vào tâm hồn độc giả, nhịp đập yêu thương từ trái tim vọng đến muôn trái tim tìm sự cộng hưởng…Không phải ngẫu nhiên khi viết về cha mẹ lúc còn sống, anh viết bằng chữ thường như một danh từ chung nhưng khi Cha Mẹ đã vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng, anh lại viết bằng chữ hoa như một danh từ riêng! Một danh từ thiêng liêng cao quý !
Sau Cha Mẹ là tình cảm thủy chung như nhất anh giành cho người bạn đời đã cùng anh lên thác xuống ghềnh suốt mấy chục năm trời:
“Giữa Khoảnh khắc
Chiều vào tối,
Hai mái bạc
Mờ in,
Nhòa sương khói,
Tựa cửa,
Đợi chờ,
Thả tâm linh
Theo chạng vạng ước mơ…
Hoa đèn hồng lên khi đêm sắp tới !”
(Chạng vạng)
Bài thơ viết theo thể tự do và rất hình tượng. Lớp trẻ sinh ra, lớn lên sau thời bao cấp khó hình dung ra “hoa đèn” lúc “chạng vạng” nó như thế nào, nhưng ai đã sống qua cái thời “tem, phiếu, vé” đọc đến những câu thơ này khó tránh khỏi cảm giác cay cay nơi sống mũi khi hồi tưởng một thời gian nan cơ cực, thiếu thốn trăm bề. Hồi ấy dầu thắp sáng hàng tháng cũng phải phân phối, xếp hàng mua theo tiêu chuẩn quy định. Mọi nhà đều dùng chiếc đèn hoa kỳ nhỏ xiu để tiết kiệm dầu. Phần bấc đèn đã cháy thành than nhưng được ngọn lửa nung đỏ lên trông như một bông hoa ở đầu sợi bấc được gọi là hoa đèn.
Bài thơ “Chạng vạng” có sự ẩn dụ độc đáo sáng tạo. Từ nghĩa đen chỉ thời khắc nhá nhem tối khi mặt trời vừa lặn , tác giả liên tưởng đến tuổi già của mình và người bạn đời đã từng trải qua bao thăng trầm dâu bể, từng chứng kiến,chiêm nghiệm giữa “chạng vạng đất trời” là chạng vạng “kỷ niệm trôi”, “nếp xưa”, “ hồn quê”, chạng vạng “chiến tranh”, “bình yên” và “ nhân tình chạng vạng trong ngữ điệu lai căng!”. Điều đáng nâng niu trân trọng là đôi vợ chồng già ấy luôn kề vai bên nhau: “…như bao đận em và anh/Thầm thì về niềm vui và bất hạnh/về đất, về nước, về tình sâu, nghĩa nặng/Chuyện cửa nhà, chuyện con trẻ mai sau…”. Người thơ ấy động viên, nhắc nhủ vợ cũng là tự động viên, nhắc nhở mình:
“Nào em!
Quyết không chạng vạng tâm
Trước phút giây chạng vạng!
Máu Lạc Hồng còn đỏ trong huyết quản,
Ta giữ bình tâm
Cho trẻ đón bình minh…”.
Tôi hình dung hình ảnh hai ngọn hoa đèn sáng lung linh, cháy hết mình tỏa sáng trong nhau, cho nhau đến phút cuối thanh thản, tự tin, mãn nguyện, tự hào về thế hệ kế cận “đón bình minh”.
Hạnh phúc nào bằng khi tuổi đã xế chiều, không còn phải vất vả lo toan việc nước hay kiếm kế mưu sinh, ta vẫn được sống thanh thản bên người bạn đời chung thủy và những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo, thành đạt? Cuộc đời Người Nhà quê họ Phạm trải bao nhiêu sóng gió thăng trầm nhưng anh thật là hạnh phúc bên người vợ hiền và hai người con ngoan cùng đàn cháu nhỏ dễ thương. Anh là người kiệm lời, kiệm chữ nhưng đằng sau mỗi câu chữ của anh, tôi như nhìn thấy bóng dáng thấp thoáng của chị. Hơn mười năm rồi, chị cận kề bên anh như hình với bóng để chăm lo cho anh từ những việc nhỏ nhất anh muốn làm mà “ lực bất tòng tâm”. Anh nhắc con nhớ lại một thời gian nan vất vả:
“ Cả hai con khi hai tháng nằm nôi
Sương ướt mặt vẫn theo mẹ đến lớp
Ba giờ đêm bố nghe con khóc
Cháo nghiền qua rổ mau
Gạo phiếu ninh muối và rau
Nuôi các con thay sữa”.
(Ngày ấy)
Để đến hôm nay các con khôn lớn và thành đạt. Anh nghẹn ngào vui sướng khi cô con gái yêu đã trở thành một thạc sĩ ngữ văn dạy tại một Học viện quân sự :
“Học trò tặng con hoa
Con mang về tặng bố
Bố lặng im,
Lòng rạng rỡ
Con là cô giáo rồi ư!
…Nay giữa giảng đường,
Học trò tặng con hoa
Bố muốn cùng con bay về quê nhà
Dâng bó hoa trước tổ tiên
Và cùng con bái lạy”.
(Nói chuyện với con gái)
Những câu thơ chân mộc giản dị mà thẳm sâu ân nghĩa cội nguồn.
Và hạnh phúc vỡ òa khi cậu con trai cưng đã trở thành Tiến sĩ Y khoa giảng dạy ở học viện danh tiếng Quân y, dẫu mẹ cha đã ngả bóng chiều:
“Bố đã già
Bây giờ chiều chiều tựa cửa
Đón những tia ấm cuộc đời…
Anh giáo của bố ơi!
Bố tặng con bài thơ
Với niềm tin yêu, bình thản tuyệt vơì
Nhân ngày nhà giáo
Cả nhà ta nối nghề hành đạo
Với phương châm:
“Giấy rách giữ lề”.
(Thơ viết cho con trai yêu quý)
Một sự tiếp nối tuyệt vời! Bình dị mà thiêng liêng biết bao tấm lòng gia đình nhà giáo.
Anh giành tình cảm thân thương trìu mến cho đứa cháu mới gần ba tháng tuổi: đẩy xe cho cháu dạo chơi, miệng à ơi “Câu Kiều ru theo gió” như gửi gắm nơi cháu ước nguyện lưu giữ những giá trị tinh thần (Ông cháu). Còn chị thì “còng lưng” tiện mía cho cháu:
“ Đầu bà gật lia lịa,
Theo nhịp chày xuống lên
Rồi lọc mấy nước liền
Nước mía thơm ngào ngạt”.
(Bà cháu)
Tôi từng đọc ở đâu đó câu nói: Tình yêu quê hương đất nước bắt nguồn từ tình yêu gia đình, làng xóm, yêu thiên nhiên tươi đẹp…Là họa sĩ, lại sinh ra, lớn lên trong gia đình cách mạng có truyền thống say mê âm nhạc, thơ của “Người nhà quê họ Phạm” hội tụ đủ tố chất “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Điều tôi tâm đắc khi đọc thơ anh là khi tả cảnh, thơ anh bao giờ cũng ngụ tình:
“Đa đoan chi mấy cao xanh
Heo may lại cướp giọt tình của mưa”
(Vầng trăng trong mưa)
“Khoảng khắc hôn hoàng
Dễ chìm trong xao lãng!
Rất ngắn thôi,
Sáng đẹp lung linh
Trước phút nghỉ ngơi
Cháy rực hết mình”.
(Khoảnh khắc hôn hoàng)
Là người con hiếu đễ, người chồng chung thủy , người cha, người ông yêu thương cháu con hết mực, Người nhà quê họ Phạm” còn là người bạn, người đồng chí chân chính – coi tình nghĩa trên tất cả:
“Ta đâu khát rượu,
Khát tri kỷ cùng ta…
Tri kỷ ơi! Nào hãy nâng lên
Trong im lặng có điều ta muốn nói…”
( Rượu)
Anh gửi niềm nhớ thương, đồng cảm với bạn bè nơi đất khách quê người:
“Ai Lao. Gió Lào
Trời Tây. Viễn xứ.
Mịt mù. Gió hú.
Lao Bảo. Đèo cao
Buồn nao nao
Đất khách
Đìu hiu. Lau lách
Rừng chiều…
Chạnh lòng. Thương nhớ
Linh thiêng,
Theo gió. Về đây!
Câu thơ,
Từ mắt,
Cay cay…”.
(Thơ gửi bạn)
Bài thơ kiệm lời, từ ngữ mộc mạc giản dị nhưng với cách xuống dòng, ngắt nhịp liên tục, người đọc cảm được tình cảm dồn nén, nấc nghẹn khi nhớ đến bạn bè viễn xứ trong từng câu chữ của “người nhà quê họ Phạm”.
Anh từng là nhà khoa học danh tiếng có nhiều năm học tập tại Liên Xô cũ, từng tham gia quân ngũ và bị nhiễm chất độc hóa học, bị thương nơi chiến trường… nhưng anh khiêm nhường không muốn nhắc đến vết sẹo của riêng mình:
“Vết sẹo ơi! Sao mi chai lên thế!
Những bàn tay đầy sẹo của mi đây
Cũng một thuở. Hình như, linh cảm thấy
Sự dịu dàng đau đớn chốn bàn tay…
Thôi đừng nhé, nhắc chi về quá khứ
Thịt da kia cũng thịt da này!
Bom đạn đã xa về dĩ vãng
Những bàn tay tiếp sức những bàn tay”.
( Hội nhập sẹo)
Nhân xem bộ phim “Hoa xương rồng trên cát”, anh liên tưởng:
“Những mảnh xương vụn nát,
Cùng đất và cát
Lẫn lộn vào nhau…
Chinh chiến qua lâu,
Bàng hoàng còn đó
Tôi nhớ,
Thời rực đỏ,
Thời lính trẻ,
Anh, tôi…
Biển cát lung linh hơi nóng ngút trời,
Hoa xương rồng đỏ thắm…
Có phải không?
Từ nơi xa thẳm
Anh hiện về đỏ rực không gian…
Nhắm mắt, tay đưa, nước mắt tuôn tràn,
Cố ôm ấp một bóng hình đồng đội”.
(Hoa xương rồng trên cát)
Chiến tranh đã qua, nhưng nỗi đau còn đó đâu chỉ là nỗi đau thế xác mà còn là những suy tư trăn trở không chỉ riêng mình:
“Bom đạn đã qua.
Vết thương vờ ngủ…
Ôi! Cái bình yên trong bão lửa
Hãy về, ru ngủ trái tim ta!
Cái thời khói lửa đã xa
Mà nghe gió rít ngỡ là chiến tranh.
Hiền hóa bến nước đồng xanh
Gió đừng rít để yên lành nước non”.
(Yên bình)
Hòa bình, dù mang bao vết thương trên mình, anh vẫn còn trái tim nồng ấm và khối óc mẫn tiệp để phấn đấu cho sự nghiệp khoa học và sự nghiệp giáo dục… Đến ngày nghỉ hưu, anh khiêm nhường giản dị trở về với cuộc sống đời thường như biết bao con dân nướcViệt, gắn bó với số phận muôn dân:
Là người tinh tế, nhạy cảm, thơ anh đau đáu nỗi buồn thương:
“Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dưa kiếp người”.
(Đau lòng lũ lụt miền Trung)
Anh buồn cho thế thái nhân tình “chạng vạng trong ngữ điệu lai căng”.
Trước hiện tượng tự nhiên bất bình thường gây nên những hệ lụy buồn cho người nông dân, anh trở trăn suy ngẫm về những vấn đề thế sự:
“…Ngỡ ơn mưa móc nhặt thưa
Nơi thì nứt nẻ, chốn mưa trắng bờ
Thần nông nửa tỉnh nửa mơ
Mưa giăng lạc vụ, bơ vơ hạt buồn”
(Mây mượn gió tạo muôn kỳ ảo)
Thơ anh có nhiều bài buồn - nhưng đó là nỗi buồn lớn lao, buồn cho mọi người chứ không phải buồn cho “cái tôi” nhỏ bé của riêng mình - nỗi buồn ấy là nỗi buồn của con người có lương tâm và trách nhiệm với con người, với cuộc đời. Nỗi buồn ấy làm thanh lọc tâm hồn ta chứ không phải nỗi buồn bi quan, yếm thế. Suy ngẫm về những lối mòn từ “nếp tư duy” đến cả trong “giấc mộng” anh đau lắm:
“Lối mòn - phẳng đến nôn nao!”
Nhưng những “lối mòn” trì trệ ấy không ngăn cản được cái nhìn lạc quan, tin yêu say đắm cuộc đời gần gũi, thân quen:
“Cuối lối mòn - mùa xuân ơi, da diết làm sao!
Theo lối gió, hanh hao đường quen thuộc
Ta đi, cả trong mơ, không chùn bước
Cuối lối mòn, em - ánh lửa - xuân ơi !”
(Cuối lối mòn - mùa xuân ơi!)
Hòa niềm vui lãng mạn của anh, ta tin rằng các giá trị văn hóa hóa truyền thống vẫn trường tồn:
“ Người xưa chắc hẳn về chơi Tết,
Mủm mỉm cười âm cả cõi dương”.
( Nhớ cụ Vũ Đình Liên)
“Dù là kẻ trần gian nơi thế tục,
Nhưng cõi lòng hướng về Trúc - Trúc ơi!”
(Ngắm tranh Trúc)
Cây trúc thẳng ngay là biểu tượng chi chí khí thanh tao của người quân tử. Phải chăng anh viết hoa chữ Trúc như một danh từ riêng để gửi gắm cái chí của mình?
Người nhà quê họ Phạm từng viết: “Ngoài nghiệp chính, thì văn chương và hội họa là người tri kỷ chân thành và trung thực nhất của đời mình”. Ngắm những bức tranh “Mẹ tôi”, “Tĩnh vật”, “Nắng sông Thương”. “Nắng chiều trên cảng than nhà máy Phan Đạm”, “tứ quý”,” “Trúc”, “Chiều thu ngoại ô Maskva”… và nhất là những bức tranh anh vẽ 10 năm trở lại đây, tôi luôn lặng người đi, thành kính, cảm động. Càng xúc động hơn khi biết đã nhiều năm nay, anh nằm một chỗ, buộc cây cọ vào tay để vẽ và đau đớn gõ từng con chữ lên bàn phím để làm thơ. Phải yêu đời đến thế nào, người thơ ấy mới viết được những câu thơ gan ruột như thế này:
“Bất động lâu mới hiểu
Ầm ỳ vọng đêm ngày
Tiếng đời ôi xa thế
Nặng trĩu mà nhẹ bay.”
Anh khao khát tình bạn- như khao khát được hít thở khí trời , giao hòa cùng thiên nhiên, vũ trụ:
“Lúc bạn bè ào đến
Căn phòng ngập gió mây
Đa tạ cùng bạn hữu
Mang trời đất vào đây”.
(Ấm nắng)
Ngắm tranh, thưởng thức thơ của “Người nhà quê họ Phạm”, tôi thấy mình thu được lợi lạc nhiều lắm - đó là lợi lạc về tinh thần vô giá mà những người viết chuyên nghiệp chưa chắc đã đem lại được cho mình, dẫu họ viết rất hay và có bài bản... Tôi muốn sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, bè bạn, với công việc và với chính bản thân mình khi còn chưa quá muộn. Dẫu thơ anh chưa phải là xuất chúng, nhưng những giá trị nhân bản về cái Chân - Thiện -Mĩ anh đem đến cho tôi là vô giá. Tôi biết: Với anh, thời gian quý hơn vàng . Anh đang chạy đua với thời gian để chiến thắng bệnh tật, để sống có ích hơn cho gia đình, bè bạn và cho cuộc đời như anh đã và đang sống như thế! Tình yêu quê hương đất nước của anh bắt nguồn từ tình yêu trong gia đình, làng xóm, yêu thiên nhiên, cây cỏ... Đó là động lực để anh cầm súng chiến đấu, là động lực thôi thúc anh vươn lên trở thành nhà khoa học sáng giá.
Trên diendanthivien.net, mọi người gọi anh là Pa Ven. Anh khiêm tốn nói: “Đừng so sánh tôi với Pa Ven”.
Phó Tiến sỹ - giáo sư Nguyễn Kim Thiết – một người bạn đồng niên dạy tại Trường Đại học Bách khoa đã viết tặng anh bài thơ:
“Ngày ấy Pa Ven bị liệt
Bị liệt đâu còn cảm thấy đau
Tôi đau nhức nhối mình tôi biết
Chẳng dám so được với ai đâu”.
Và anh đã có một bài họa khiêm nhường và rất lạc quan yêu đời, yêu người:
“Nửa liệt, kém Pa Ven bại liệu?
Và đau, chắc như tôi đang đau?
Nhưng khi bạn hữu mang Xuân đến,
Cười sún cả răng, kém ai đâu?”
Người thương binh - nhà khoa học mang bút danh “Người nhà quê họ Phạm” còn có một bút danh khác cùng ý nghĩa là Phạm Thôn Nhân. Anh tên thật là Phạm Ngọc San - một bloger thân thương, giản dị, khiêm nhường của Làng Thơ bên Thi viện.net, blog tiengviet.net, blog spot.com… Đã bước qua cái tuổi “cổ lai hy”, với ba tập thơ “Vầng trăng trong mưa”, “Hoàng hôn không yên lặng” và “Chạng vạng hoa đèn”, thơ anh làm cho tôi thấm thía hơn bao giờ hết câu nói của cổ nhân: “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”.Thơ anh như một “trái chín muộn”, trải qua bao dông bão cuộc đời, chắt chiu từ giọt sương mai, gom góp từ tia nắng ấm, lặng lẽ dâng tặng đời hương vị ngọt thơm ...

Lai Châu, ngày 17 tháng 9 năm 2013
Bùi Thị Sơn
GÁI NÚI VIẾT XONG BÀI GIỚI THIỆU NÀY TỪ CHIỀU 5/9 THÌ TỐI 5/9 BỊ NGỘ ĐỘC THUỐC, XUÂT HUYẾT NIÊM MẠC VÀ ĐƯỜNG TIÊU HÓA, PHẢI NẰM KHOA NỘI BỆNH VIỆN TỈNH LAI CHÂU TIÊM VÀ TRUYỀN GIẢI ĐỘC 11 NGÀY,NAY LẠI CHUYỂN VỀ KHOA NGOẠI ĐIỀU TRỊ TIẾP. HÔM NAY GÁI NÚI TRANH THỦ GỬI BÀI LÊN TRANG. XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN CÁC BÁC,CÁC ANH,CÁC CHỊ VÀ CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN THĂM, ĐỌC VÀ GÓP Ý GIÙM GÁI NÚI.NẾU CHẬM HỒI ÂM , MONG MỌI NGƯỜI LƯỢNG THỨ CHO GÁI NÚI NHÉ !

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

“CHUYỆN CÕI TRỜI, CHUYỆN CÕI ÂM” –MỘT TIỂU THUYẾT MỚI LẠ, CHÂN THẬT

Giới thiệu sách
Tiểu thuyết “Chuyện cõi trời, chuyện cõi âm”của tác giả Hoàng Xuân Họa, với trên 250 trang - một cuốn sách không dày, nhưng cũng không thể coi là mỏng. Dung lượng chuyển tải trong đó gồm những gì mà tác giả gọi là tiểu thuyết? Nếu tác giả coi đây là một cuối tiểu thuyết thì người đọc chúng ta cũng đành ấm ức mà chiụ thiệt! Vì rằng... định nghĩa về tiểu thuyết và hình thức của một cuốn tiểu thuyết không là vậy: Nội dung không theo lối kể chuyện thông thường, không chương không hồi, những nhân vật xuất hiện rồi không còn được quay lại “giải trình” số phận của mình cho đến chót. Chuyện xoay quanh hai giấc mơ với hai nhân vật chính, Phong và Huệ. Phong là người trần gian, Huệ  là người cõi tiên...
Chưa bao giờ và chưa tiểu thuyết nào tôi đọc - suy ngẫm lâu như cuốn tiểu thuyết “Chuyện cõi trời, chuyện cõi âm” của Cựu chiến binh - Cựu giáo chức - Cựu nhà báo Hoàng Xuân Họa (NXB Hội Nhà văn, 2012). Cuốn tiểu thuyết lạ, dùng bi kịch thể hiện đời sống nhằm  thanh lọc tâm hồn của một người viết không chuyên  cứ ám ảnh, thôi thúc tự trong tâm khiến tôi không dứt ra nổi …
Khi vừa được tác giả gửi tặng cuốn tiểu thuyết, mới đọc nhan đề tôi chợt nghĩ :“ Ôi cái ông bạn vong niên của mình chán đời rồi chăng? Từng say thơ, nghiện chữ với những bài thơ đầy trở trăn, khắc khoải trong “ Trót một thời yêu”, bỗng dưng người thơ ấy trốn vào“Cõi Trời”,“Cõi  Âm” để quên đi thực tại ư?”. Song càng đọc, càng suy ngẫm tôi càng hiểu ra: tác giả mượn giấc  mơ để phản ánh hiện thực, gửi gắm vào đó một giá trị tinh thần mới thôi! Giấc mơ của Phong (nhân vật xưng tôi) đang sống trên Cõi Trần bỗng gặp lại Huệ - người bạn tình đã hy sinh trong chiến tranh hơn ba mươi năm trước. Cuộc  chu du xuống Cõi  Âm, lên Cõi  Trời đã khúc xạ rõ bộ mặt đời sống tinh thần  với  những thăng trầm của xã hội qua hai cuộc chiến tranh và cả thời  hậu chiến.
Gần đây, đọc tiểu thuyết của các tác giả không chuyên – những người cầm súng trước khi cầm bút viết về đề tài chiến tranh với những gì họ mắt thấy, tai nghe, trải qua và cảm nhận chúng bằng cả tâm hồn lắng đọng kinh nghiệm sống và được chiếu sáng bằng lương tri người nghệ sĩ - công dân, tôi thấy khuynh hướng sáng tác của họ thể hiện rõ nét qua sự kết dính hiện tại với quá khứ một cách linh hoạt, sinh động dựa trên ký ức… Tiểu thuyết “Chuyện cõi trời, chuyện cõi âm” của tác giả Hoàng Xuân Họa hội tụ đủ những  ưu thế đó.
Hai nhân vật chính Phong và Huệ gặp nhau khi Phong được ban hậu cần đơn vị cử đến K9, nhận và phân phối gạo cho các đại đội trong tiểu đoàn. Hai chiến sĩ gái cùng làm với Huệ đi mở thêm kho khác ở triền núi bên kia tranh thủ mùa khô nhập gạo từ hậu phương vận chuyển vào để dự trữ  cho chiến dịch sau. Giữa khung cảnh chỉ hai người bên nhau trong rừng sâu khi bình yên, lãng mạn, khi bom rơi đạn nổ cận kề cái chết, người con trai hai mươi tư tuổi và người con gái hai mươi tuối sao có thể dửng dưng được với nhau? Vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn họ bất chợt nhận thấy ở nhau thôi thúc họ thăng hoa, dâng hiến, trao nhận… Nhưng ước muốn cháy lòng ấy bất thành bởi tiếng máy bay xé trời xẹt qua. Họ vội vàng buông nhau ra để chạy vào hang đá tránh bom. Cứ liên tục như thế… sau đó bao nhiêu cố gắng của hai  người đều trở nên vô nghĩa. Ngẫm mà thương! Bom đạn kẻ thù quấy phá cả những giây phút thăng hoa hiếm hoi họ được gần bên nhau. Càng thương hơn khi biết sau khi chia tay nhau không bao lâu, Huệ đã hy sinh trong lúc đang mở đường chuẩn bị cho cho chiến dịch mùa khô tới. Nỗi đau xót tột cùng người trinh nữ ấy đã khiến Phong suốt đời vương vấn đến mức gặp lại Huệ trong mơ, Phong được nàng báo mộng nàng bất tử bởi nàng là người của Cõi Tiên.
Cùng Huệ đi hết Cõi Âm, Cõi Trời, Phong được gặp gỡ, nghe kể hoặc ôn lại bao số phận con người của một thời máu lửa, đa dạng, phức tạp, bi hài cùng bao trắc ẩn, để thương  yêu, để căm hận, để khát khao mong muốn sống tốt hơn trong Cõi Người. Viết về chiến tranh, ngòi bút Hoàng Xuân Họa không hề dễ dãi, giản đơn, ca ngợi xuôi chiều. Mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều dứt ra từ những trải nghiệm ám ảnh, đớn đau, quằn quại… Gặp nhau trong mơ, Huệ kể cho Phong nghe về sự hy sinh của biết bao đồng đội : chị Thu vĩnh viễn ra đi sau khi hạ gục thằng Tây dâm dục; một chiến sĩ vô danh chết không toàn thây bởi quả bom phát quang trên một điểm chốt tay một nơi, chân một nẻo, nguyên bộ ruột vắt lòng thòng trên ngọn cây rừng. Một chiến sĩ khác mất trên đường hành quân do bị sốt nằm lại giữa rừng, Đại đội anh bị trúng tọa độ B52 gần như bị xóa sổ hoàn toàn cả đơn vị. Đại đội đi sau hiểu lầm là anh “B quay giữa đường cách đó ba ngày” nên bị thông báo về địa phương là đào ngũ. Vẫn biết rằng chiến tranh đâu phải là trò đùa nhưng sự hy sinh thầm lặng của người chiến sĩ vô danh không chỉ là máu xương mà còn là danh dự. Những điều này tác giả viết ra để mọi người phải ngẫm về cái giá cần trả của bao người cho cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Trong hoàn cảnh oái oăm, người hy sinh thầm lặng  thì bị nghi phản bội; còn người chết do thói xấu ăn trộm vặt lại được phong liệt sĩ (!!!). Cái chết hy hữu của Mít - anh chàng dân quân du kích xã - một tay xạ thủ khẩu đội súng cao xạ 12,7 ml  không phải vì  chiến đấu với giặc mà vì ăn trộm mít của nhà hàng xóm  bị rắn cắn đúng lúc tốp máy bay Mỹ cắt nốt quả bom còn lại xuống trận địa. Đồng đội cho rằng Mít bị sức ép bom hy sinh! Gặp Mít ở cõi âm, thấy anh chàng đang nhăn nhó vì những cơn đau buốt di chứng nơi bị rắn cắn, Phong hỏi Huệ:“ Diêm vương cũng bắt tội liệt sĩ à?”. Mít giãy nảy thanh minh: “- Tôi không là liệt sĩ. Khi tôi chết, trần gian họ vẽ vời ra thế, nào tôi biết gì đâu”. Toàn chuyện nực cười, mà cười ra nước mắt… Người như Mít còn  tư cách chán. Anh ta không dám nhận mình là liệt sĩ mà tại “Trần gian họ vẽ vời ra thế ”.
Viết về chiến tranh, “Chuyện cõi trời, chuyện cõi âm” không né tránh những hy sinh, thua thiệt tạm thời, không né tránh miêu tả, phản ánh những con người ti tiện, hèn nhát… Tính gay gắt của cuộc chiến được miêu tả trung thực trên nhiều khía cạnh. Trong cơn xoáy lốc của chiến tranh, đặc biệt trước những tình huống hiểm nguy, vàng thau được phân định rõ ràng, con người bộc lộ rõ bản chất của mình… Độc giả bắt gặp trong tiểu thuyết của Hoàng Xuân Họa những nhân vật dũng cảm - kiên định như Huệ, chị Thu và rất nhiều chiến sĩ vô danh khác… Độc giả cũng bắt gặp những con người hèn nhát, phản bội, xấu xa, đê tiện qua chiếc gương Quá Khứ Hiện Về của Huệ: Vinh từ giao thông hào ôm cây súng vọt khỏi vị trí nhao đến một gốc cây cổ thụ cao nhất làng để  trốn tránh cái chết khi bọn lính rằn ri được thả từ  đàn máy bay lên thẳng xuống, tràn ra khắp xóm làng, chĩa súng bắn như vãi đạn vào những mái nhà tranh ẩn dưới gốc dừa…; Tịnh ngồi bó giò trong hậu cứ rê súng bóp cò vào bắp chân nhưng lại bắn chệch vào xương ống chân làm vất vả bao nhiêu người phải trèo đeò lội suối vượt hàng trăm cây số đưa hắn từ mặt trận trở về quân y hậu phương. Y sĩ Tâm kiểm tra, biết Tịnh tự thương nên quyết định gửi Tịnh ra hậu tuyến xử lý. Phong tự nhận hắn là anh em họ để xin Tâm tha cho hắn… Không ngờ sau hòa bình, Phong tình cờ thấy hắn gây sự đánh Tâm ở ngoài phố chỉ vì  hắn bán mũ cối giả , Tâm hỏi nhưng không mua. Phong giật mình khi nhìn thấy chiếc huy hiệu thương binh đeo trước ngực Thịnh.Thật đau xót khi Phong cởi khuy vén áo ngực Tâm để xoa dầu vào chỗ đau do Thịnh đánh mới biết Tâm có một vết thương làm lép một bên vai. Một kẻ khác mác giải phóng quân hẳn hoi, to cao đẹp trai, chưa vào đến chiến trường đã dát chết, “tuột xích” lủi về quê cày ruộng. Đã thế, lại còn xí xớn ngủ với vợ bạn, bị cả họ anh bạn kia bắt được, đè ra “xin nửa con cu”, xấu hổ không dám đi bệnh viện, chữa lang băm ở nhà, khi bị nhiễm trùng máu nặng mới đến bệnh viện thì đã muộn. Lại nữa, một gã đại đội trưởng tép riu mà cũng khoe ra đến là lắm thứ quyền lực để gạ gẫm con gái… Những nhân vật xấu xa, đê hèn tuy không nhiều nhưng không thể không nói đến. Dựa vào nguyên tắc viết theo tinh thần phản tỉnh, ngòi bút của Hoàng Xuân Họa giúp độc giả có cái nhìn chân thật về chiến tranh không phải để hạ thấp con người mà nhằm tạo hình ảnh tương phản, đối lập, tôn cao giá trị đích thực của những người lính chân chính dũng cảm quên mình bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Viết về nỗi đau thương mất mát, về khoảng tối trong mỗi con người nhưng với cái nhìn anh minh, nghiêm túc, đầy ý thức trách nhiệm của người trong cuộc, tác giả đã tái hiện chiến tranh  nhằm đề cao khát vọng hòa bình  của cả dân tộc.
Bên cạnh việc mô tả tính phức tạp và ác liệt của chiến tranh, ca ngợi tinh thần chiến đấu , hy sinh quả cảm của chiến sĩ, phê phán thói hèn nhát, cơ hội của một số kẻ đào ngũ, ngòi bút Hoàng Xuân Họa còn giành sự xót thương, cảm thông cho số phận của những con người bên kia giới tuyến bị ép buộc cuốn vào vòng chiến tranh, chưa kịp ra trận đánh đấm gì đã chết, không làm gì hại dân hại nước mà bản thân và gia đình vẫn bị xóm làng, xã hội khinh rẻ. Chiến tranh, người theo bên này được coi là bên ta, người bị ép theo bên kia bị coi là theo địch! Qua lời kể của một hồn ma - Huệ -  về  bi kịch của những con người lương thiện bị ném vào vòng xoáy của cuộc chiến không lối thoát, ta thấy tiểu thuyết“ Chuyện  Cõi Trời, chuyện Cõi Âm”  của tác giả  Hoàng Xuân Họa thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, hòa bình. Không trải qua cam go của cuộc chiến, không có tấm lòng nhân ái và thái độ dũng cảm khi phản ánh hiện thực thì không thể có cái nhìn - tâm linh sâu sắc đến thế!
Đến “Cõi Âm”, ta còn gặp những hồn ma của thời hậu chiến với muôn mặt đời thường  cùng bao “Hỉ, nộ, ái, ố” chốn trần gian. Anh chàng Đông nghèo khổ thời trẻ có công cứu một cán bộ cách mạng, sau hòa bình được học hành rồi trở thành cán bộ quản lý Sở nhà đất rồi thoái hóa biến chất khi “tận thu” những khu nhà đất ngon nghẻ nhất cho con cái của mình. Đến khi  xuống Âm phủ Đông vẫn theo thói cũ, lo xa, dự trữ nhà cho con cái như lúc trên trần gian. Lại gặp lão bật bông người cùng phố với Phong chuyên sản xuất chăn bông tiết kiệm và gia công chăn bông cho mậu dịch với nhiều mánh khóe che mắt Thượng Đế  xuống đến Cõi Âm gã vẫn cứ bật bông “tưng tưng”. Lại đến khu giành cho  tầng lớp trung lưu gặp những con người có mẽ ngoài bảnh bao sáng láng luôn giành nhau một chiếc ghế để xem chiếu phim, xem đấu bóng chuyền, xem đá bóng , Phong chợt nhớ đến câu thơ của Nguyễn Bảo Sinh: “ Ghế thì ít đít thì nhiều/ cho nên đấu đá là điều tất  nhiên”.Lại gặp một người cao lênh khênh, vận bộ đồ ký giả trước ở trần gian lợi dụng việc làm báo để làm giàu bất chính, bất lương bằng tiền tài trợ của nhà nước, dọa đưa tin này tin nọ lên báo để tống tiền các doanh nghiệp lỡ sơ xuất trong việc làm ăn. Lại  trông thấy  Nam Tào từ trên mây ngó xuống, nách cắp cuốn sổ dày cồm cộp, tay cầm cái bút lông cùng hai thiên binh, thiên tướng đi tróc nã Từ Đào, một gã lãng tử với bộ óc đẫm mây, tràn gió lúc nào cũng như người mộng du.
Cứ nhẩn nha thong thả như thế, tác giả đưa ta đi xem cảnh những kẻ Sở Khanh, ăn chơi đàng điếm bạ đâu tán gái đấy, rải con khắp mọi nẻo đường quốc lộ trong Nam ngoài Bắc, làm cho bao sinh linh bé bỏng bị giết khi còn là thai nhi. Giờ xuống trần gian, những kẻ Sở Khanh ấy lại bị chính những đứa con mình giết hành hạ tra tấn lại…  Cứ thế, tác giả dẫn dụ ta lạc vào giấc mơ huyền bí của ông, gặp những người “trần sao, âm vậy” để chiêm nghiệm sâu hơn về thế thái nhân tình .
Sau giấc mơ li bì về Cõi Âm, Phong trở về với đời thường nhưng đầu óc cứ bâng bâng tiêng tiếc, cảm thấy như vừa  đánh mất thứ gì đó to lớn quý giá lắm và lại lấy cớ để “vi vu chìm vào giấc ngủ”. Lần này Phong lạc vào giấc mơ về Cõi Trời - giấc mơ ngắn chỉ bằng một phần tư giấc mơ về Cõi Âm.Và Phong ngộ ra: dù là ở Cõi Trần hay Cõi Âm, Cõi  Trời cũng chẳng hiếm những kẻ có chức có quyền “Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê”(Truyện Kiều - Nguyễn Du). Trở lại giấc mơ về Cõi Trời của Phong, cũng thấy lắm luật lệ nghe có vẻ quy củ nhưng cũng không ít nhiêu khê, úi sùi: Trên trời có 12 vị  Hành khiển là 12 vị Thần thời gian, Ngọc hoàng sai mỗi vị xuống làm việc dưới trần một năm theo âm lịch cùng thần hộ vệ của mình là các Biểu Tào phán quan. Khi hạ giới cúng giao thừa “Tống cựu nghênh tân”, mâm vật phẩm ấy với ý nghĩa để tiễn hai vị thời thần cũ về trời, đón hai vị thời thần làm việc năm tiếp theo – năm mới.Tào phán đi theo quan Hành khiển để thu vật lễ, hai thứ chính là rượu và tiền vàng. Họ bảo đem về nhập vào kho nhà trời (!?)  
Xuống Cõi Âm, Phong gặp ối người quen! Lên Cõi Trời, Phong lại cũng gặp không ít người quen: Tung - nghệ sĩ nửa mùa “lên du lịch vũ trụ xem có gì lạ để về viết lách cho vui. Chuyện trần gian viết mãi nhàm quá rồi, chẳng muốn viết nữa”. Rồi lại gặp ông giám đốc Công ty sửa chữa ô tô Cát Tận, ngày còn làm “cán bộ thủ kho” trên trần thế từng móc ngoặc ăn cắp sợi của xí nghiệp bán cho con phe lấy tiền chia nhau. Rồi bị công an kinh tế tóm được, phải vào nhà đá “ bóc lịch”. Ra tù lại còn mắc thêm tội hủ hóa! Năm ngoái, ở trần gian gia đình gã đã bốc mộ cho gã. Thế mà giờ gã vẫn lên kiện trời... 
“Chuyện cõi trời, chuyện cõi âm”, ngoài hai nhân vật chính là Phong và Huệ, các nhân vật khác chỉ lướt qua một lần, khoảng một vài trang hoặc chỉ một vài dòng, rồi không bao giờ quay trở lại… nhưng với giọng kể kề cà, rủ rỉ, với  cách xây dựng hình tượng qua bút pháp chấm phá, chi tiết tiêu biểu chọn lọc, ta vẫn hình dung ra chân dung từng cái tôi cá thể trong xã hội loài người ở Cõi Trời, Cõi Âm không khác chi xã hội loài người đa dạng và phức tạp trên dương thế. Chuyện mặc dù viết dưới hình thức  giấc mơ nhưng đã thể hiện một bút pháp hiện thực phê phán sâu sắc. Đó là kết tinh kinh nghiệm sống trên trường đời với bao biến cố thăng trầm tác giả từng trải qua từ tuổi hoa niên đến thời khói lửa, từ thời bao cấp đến thời hội nhập, mở cửa… Từ  hai giấc mơ của tác giả Hoàng Xuân Họa, tôi ngộ ra bao điều bổ ích. Và trên cả, tôi nhận được từ cuốn sách một tinh thần nhân văn bác ái, khát vọng vươn tới những giá trị Chân - Thiện – Mỹ được tác giả khéo léo giấu đi dưới giọng kể khách quan cho người đọc tự cảm nhận.
Gấp cuốn sách lại,  tôi càng thêm yêu quý, cảm phục  Huệ và Phong. Huệ hy sinh khi còn trẻ thì bất tử trong lòng mọi người là đương nhiên rồi, nhưng Phong từ bom đạn trở về  vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của “Anh bộ đội Cụ Hồ” giữa vòng đời bon chen danh lợi thì thật là đáng quý! Không mắc phải “Hội chứng chiến tranh”, không bị những hồi ức đẫm máu làm bấn loạn tinh thần, Phong đàng hoàng tự trọng sống thực với chính mình. Ở phố, Phong coi khinh cái lão chuyên ăn cắp vặt háo danh cơ hội tên Thó (Sau đổi thành Thọ cho nó oai). Gặp cảnh trớ trêu: Tịnh đánh  Tâm -  người từng băng bó và tha tội tự thương cho hắn ở chiến trường, Phong ân hận sám hối về lòng thương không đúng chỗ của mình đã góp phần lừa dối nhân dân, gây hậu quả đớn đau cho Tâm. Ra biển, cùng vợ vào nhà nghỉ, nhân viên nhà nghỉ bảo cho mượn chứng minh thư nhân dân thì lại bảo: “Cả giấy kết hôn nữa chứ!”. Ôi, cái anh chàng cựu lính dũng cảm oai hùng trong chiến tranh mà khù khờ, ngu ngơ, lạc lõng giữa thời buổi cơ chế thị trường thông thoáng, ối người chẳng phải vợ chồng cũng dẫn nhau vào nhà nghỉ, khách sạn tranh thủ “Bù đắp thiệt thòi” mà cuộc hôn nhân lắp ghép không toại nguyện… Trong bữa tiệc nhà Trời,  Vương Mẫu sau khi giơ cao chén rượu chúc tụng mọi người, nhấp một hụm rồi lạnh lùng đưa chén cho Phong. Vì không hiểu tập tục nhà Trời, Phong cứ cầm chén rồi đứng như trời trồng giữa hội trường đông đủ quan lớn quan nhỏ ăn mặc lòe loẹt. Khi Huệ bảo: “ Mẹ cho, sao anh không tạ ơn mẹ rồi uống đi”. Phong nghĩ: “Tôi nghèo thì nghèo thật, phó thường dân thì phó thường dân thật, nhưng chén rượu thừa, miếng cơm thừa dù của trời chăng nữa, chết đói ngay tôi cũng không thèm” Rôì đặt trả ly rượu xuống bàn ngay trước mặt Vương Mẫu, hung hăng định rời khỏi bàn tiệc. Vương Mẫu nắm tay Phong kéo lại bảo ngồi vào ghế phía bên trái, rồi bà nói với Huệ: “Thằng này làm mẹ thích! Làm người phải biết kiêu hãnh mới đáng làm người. Làm người mà nhỏ nhen tư túi, tham ăn tục uống,  ăn của thừa của đút lót thì làm chó mèo cho đúng bản chất…”
Tôi kính trọng Phong - nhân vật phảng phất hình bóng của tác giả như những mảng tự truyện. Song tôi vẫn ước: giá tác giả đầu tư thời gian hơn nữa để xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thời bình không chỉ sống mẫu mực, đạo đức trong gia đình, ngoài xã hội mà còn có ảnh hưởng tốt lan tỏa đến cộng đồng trong Cõi Thực chứ không phải Cõi Mơ.
Tôi thích văn phong  lúc mộc mạc giản dị, lúc lãng mạn tình tứ , lúc châm biếm sâu cay của Hoàng Xuân Họa nhưng tôi vẫn ước khi diễn tả tình yêu thăng hoa lên đỉnh điểm tình dục, tác giả dùng giọng văn mượt mà, kín đáo, tế nhị hơn (Dẫu là trong hoàn cảnh chiến tranh, bom rơi đạn nổ, khoảng lặng giữa hai trận đánh, con người cận kề với cái chết).
Dẫu sao, “Chuyện Cõi Trời, chuyện Cõi Âm” vẫn là một tiểu thuyết chân thật giúp tôi ngộ ra bao điều mà dòng văn học chính thống một thời né tránh. Tôi xin mượn lời của nữ liệt sĩ -  Tiên cô Huệ nói với Vương Mẫu để kết thúc bài viết này: “Mẹ ơi, tuy cuộc sống trần gian có sông thương biển khổ thật đấy nhưng con vẫn muốn sống dưới đó… Loài người tuy đói nghèo khổ ải nhưng đại bộ phận họ biết yêu thương nhau, họ sống với nhau bằng lòng nhân ái, lòng vị tha. Hạnh phúc mà họ có được là lòng can đảm, đức hy sinh. Ngay trong nghèo túng họ vẫn sinh ra những thiên thần bé nhỏ của họ. Cõi tiên chúng ta không bao giờ có được”.
                                                                      Lai Châu, ngày 4/9/2013 -  Bùi Thị Sơn.


* Bài viết có tham khảo Tiểu luận- phê bình văn học “ Tiểu thuyết đương đại” của Bùi Việt Thắng- NXB Quân đội nhân dân- 2006.